Thông tin giá cả thị trường số 21/2016

03:05 PM 07/09/2016 |   Lượt xem: 3640 |   In bài viết | 

TIÊU ĐIỂM

Sản xuất nông nghiệp phải gắn với thị trường

Sau 3 năm thực hiện Đề án Tái cơ cấu (TCC) nền nông nghiệp, hiệu quả vẫn còn khiêm tốn, chưa tạo được chuyển biến rõ rệt, tăng trưởng của ngành chưa vững chắc. Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng yêu cầu trong giai đoạn tới, TCC nông nghiệp phải gắn với thị trường. Người nông dân không chỉ làm ra những gì họ có thể, mà là làm ra những gì thị trường yêu cầu.

Nông dân sản xuất theo thị trường

Theo báo cáo, những kết quả đạt được trong 3 năm qua là rất quan trọng khi nông nghiệp là lĩnh vực duy trì được phát triển và tăng trưởng khá ổn định. Tốc độ giá trị sản xuất toàn ngành tăng trung bình 3,41%/năm. Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành giai đoạn 2013 - 2015 đạt 88,3 tỷ đô-la Mỹ. Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Lê Quốc Doanh, sức cạnh tranh nông sản chưa cao, chuỗi giá trị còn ngắn, thị trường xuất khẩu chưa bền vững. Vấn đề an toàn thực phẩm nông sản còn nhiều bất cập. Số lượng doanh nghiệp tham gia đầu tư chưa cao, chỉ chiếm 1% số lượng doanh nghiệp trên cả nước, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa… Nói về những hạn chế, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường thừa nhận, nông nghiệp Việt Nam cơ bản vẫn dựa trên quy mô nhỏ lẻ. Nước ta có hơn 13 triệu hộ nông dân nhưng chỉ có trên 3 triệu héc-ta đất lúa, bình quân 0,3 héc-ta/hộ. Do vậy, việc tổ chức sản xuất hàng hóa lớn đáp ứng yêu cầu hội nhập vẫn gặp rất nhiều khó khăn.

Trước tình hình đó, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đề nghị trong thời gian tới, cần xác định rõ định hướng TCC nông nghiệp phải gắn với thị trường. “Không phải thị trường trong nước mà là quốc tế, không phải chỉ là hôm nay mà phải tính tới thời điểm hội nhập sâu rộng khi các hiệp định thương mại đa phương, đặc biệt là TPP có hiệu lực”, Phó Thủ tướng khẳng định. Muốn như vậy, phải xây dựng được các tiêu chuẩn sản phẩm mà thị trường trong nước, quốc tế yêu cầu. Bên cạnh đó, phải xác định được các sản phẩm chủ lực, các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh nhằm tạo ra các sản phẩm có số lượng lớn, chất lượng cao. Ngành Công Thương có vai trò hỗ trợ phát triển những sản phẩm chủ lực ở cấp độ quốc gia, vùng, địa phương.

Giải bài toán TCC nông nghiệp

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đề nghị ngành nông nghiệp trước hết, cần rà soát lại quy hoạch, cập nhật lại quy hoạch cho phù hợp với thực tiễn, từ đó lập các kế hoạch, lộ trình thực hiện cụ thể dựa trên nguồn lực hiện có, khả năng huy động thêm từ xã hội và hỗ trợ của ngân sách. Phát triển mạnh các hình thức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã để thể hiện vai trò “bà đỡ” cho người nông dân, làm cầu nối giữa người dân với thị trường, hỗ trợ người dân tiêu thụ sản phẩm. Về tổ chức sản xuất, phải tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau, doanh nghiệp với hợp tác xã, doanh nghiệp với người dân; liên kết vùng, giữa các địa phương… tạo ra sản phẩm có số lượng lớn, chất lượng cao.

Để mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm, ngành nông nghiệp và các bộ, ngành liên quan cần xây dựng chương trình để tăng cường thông tin về các thị trường mới, những cam kết thương mại song phương, đa phương để người dân kịp thời nắm bắt được cơ hội, thách thức. Xây dựng cơ chế để khuyến khích, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, các tổ chức, các nhà khoa học tham gia nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao sản phẩm cho người nông dân.

Bên cạnh đó, bà con lưu ý muốn xuất khẩu được sản phẩm ra nước ngoài, cần đặc biệt quan tâm, quản lý chất lượng giống cây, con, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; có các giải pháp giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao chất lượng của sản phẩm.

MUA GÌ

Hưng Yên: Giá nhãn VietGAP cao hơn 10 - 15%

Người dân Hưng Yên đang có mùa nhãn ngọt khi giá bán sản phẩm ở mức cao, thị trường hút hàng. Khoái Châu là một trong 3 huyện trồng nhãn nổi tiếng của Hưng Yên. Năm nay, tổng sản lượng nhãn của huyện đạt khoảng 18.000 - 20.000 tấn. Nhãn ngon bán tại vườn giá 40.000 - 50.000 đồng/kg, nhãn có chất lượng khá từ 25.000 - 30.000 đồng/kg, loại nhãn có chất lượng trung bình khoảng 18.000 - 20.000 đồng/kg, riêng với nhãn sản xuất theo VietGAP, giá bán luôn cao hơn nhãn sản xuất đại trà từ 10 - 15%. Năm 2016, do ảnh hưởng của bão số 1 nên sản lượng nhãn của xã đạt 4.500 - 5.000 tấn, thiệt hại khoảng 1.000 tấn. Tuy nhiên, do được sự quan tâm hỗ trợ của huyện, nhất là việc xây dựng chợ nông sản Khoái Châu nên nhà vườn có chỗ giao lưu, mua bán sản phẩm, kết nối doanh nghiệp về với địa phương. Nhờ đó, việc tiêu thụ nhãn thuận lợi hơn khá nhiều.

Vĩnh Long: Khoai lang tím Bình Tân bán được giá

Nông dân trồng khoai lang tím ở huyện Bình Tân (Vĩnh Long) thu hoạch vào thời điểm này bán trúng giá, tại các nhà vựa đầu mối thu mua 12.000 đồng/kg, cao hơn gấp đôi so cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên đó là khoai lang trồng đạt tiêu chuẩn GlobalGAP của HTX Dịch vụ nông nghiệp Thành Đông, có diện tích 15 héc-ta, bán được giá xuất khẩu nên cao hơn khoai trồng thông thường 2.000 đồng/kg. Trong khi đó các giống khoai lang trắng do trồng ít, bán các chợ trong vùng có giá 9.000 đồng/kg, còn lại các giống khoai lang sữa và khoai lang bí giá 5.000 đồng/kg. Bình Tân là vùng trồng khoai lang tập trung. Năm nay, sau vụ lúa đông - xuân nhiều nông dân chọn giải pháp luân canh lúa - khoai, thị trường tiêu thụ phục hồi tốt trở lại.

Đồng bằng sông Cửu Long: Tôm nguyên liệu tăng giá

Khắc phục hậu quả của đợt hạn mặn vừa qua, nhiều hộ nuôi tôm sú vùng ĐBSCL đã chuyển đổi sang thả nuôi tôm chân trắng do thời gian nuôi ngắn, lợi nhuận cao, tỷ lệ nuôi thành công cao, nên diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng tăng khá cao. Cụ thể, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng của các tỉnh vùng ĐBSCL 8 tháng qua ước đạt 55.254 héc-ta, diện tích tôm sú ước đạt 561.504 héc-ta. Sản lượng tôm thẻ chân trắng ước đạt 107.007 tấn, tăng 4,1%. Giá tôm nguyên liệu tăng khá do thị trường xuất khẩu khởi sắc. Dự báo trong các tháng cuối năm sản lượng tôm nuôi tăng khá.

Giá tôm nguyên liệu tại Cà Mau trong tháng 8/2016 tăng nhẹ so với tháng trước nhưng nguồn cung ít. Cụ thể, so với tháng trước, giá tôm sú cỡ 20 con/kg tăng 3.000 đồng/kg và hiện được bán với giá 281.000 đồng/kg; loại cỡ 30 con/kg tăng 5.000 đồng/kg lên 215.000 đồng/kg; loại cỡ 40 con/kg tăng 4.000 đồng/kg lên 133.000 đồng/kg. Tại Phú Yên, tôm sú tươi có giá ổn định, tôm sú cỡ 30 con/kg có giá 220.000 đồng/kg và tôm sú cỡ 40 con/kg ổn định ở mức 200.000 đồng/kg, giá tôm thẻ chân trắng 100 con/kg dao động từ 97.000-107.000 đồng/kg.

Giá cá thát lát cườm giảm mạnh, khó tiêu thụ

Phong trào nuôi cá thát lát cườm bắt đầu rộ lên tại ĐBSCL những năm gần đây, nông dân đua nhau thả nuôi nhiều do cá được thương lái thu mua với giá cao. Tuy nhiên từ đầu năm đến nay, việc tiêu thụ loại cá này ngày càng khó khăn và giá liên tục giảm mạnh. Theo Phòng NN&PTNT huyện Thanh Bình (Đồng Tháp), cá thát lát cườm chủ yếu tiêu thụ nội địa, nhu cầu không lớn nên khi sản lượng nuôi vượt cầu đã bị rớt giá mạnh khiến người nuôi điêu đứng. Tại An Giang, giá cá này hiện chỉ còn 36.000 - 38.000 đồng/kg, giảm gần một nửa so với cách nay 2 tháng. Theo báo cáo của UBND xã Phú Bình và xã Hòa Lạc (huyện Phú Tân), trong khoảng 2.500 tấn cá thát lát được thả nuôi có gần 400 tấn cá đã quá lứa thu hoạch chưa thể tiêu thụ. Mỗi ao nuôi trung bình vài chục tấn cá, trong khi các thương lái mua mỗi ngày chỉ 2 tấn nên lượng cá ứ đọng khá lớn. Giá cá sụt giảm thê thảm làm người nuôi thua lỗ 6.000 - 8.000 đồng/kg. Người nuôi loại cá này tại Đồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ... cũng lâm tình cảnh tương tự. Trong khi đó, chất lượng thức ăn chăn nuôi không đúng như cam kết của doanh nghiệp, hệ số sử dụng thức ăn quá cao và liên tục tăng giá làm chi phí nuôi đội lên, nông dân lỗ nặng.
 

BÁN GÌ

Vĩnh Long: - Chôm chôm tăng giá, nhà vườn phấn khởi

Hiện nay, chôm chôm Java tại huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long được thương lái thu mua với giá từ 13.500 - 15.000 đồng/kg, cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái từ 8.500 - 10.000 đồng/kg. Với mức giá này, sau khi trừ hết chi phí, nông dân lãi khoảng 7 - 8 triệu đồng/công. Tuy giá cao nhưng năng suất chôm chôm giảm mạnh do ảnh hưởng của đợt hạn mặn vừa qua. Toàn huyện Trà Ôn hiện có trên 650 héc-ta trồng chôm chôm tập trung ở các xã Lục Sĩ Thành, Phú Thành và Tích Thiện. Trong đợt hạn mặn vừa qua, có khá nhiều diện tích bị thiệt hại, nên năng suất giảm đáng kể. Tuy nhiên, theo kết quả thống kê ban đầu của ngành chức năng thì không có diện tích thiệt hại nào đến mức được nhận hỗ trợ theo quy định. Vì lúc khảo sát cây vẫn chưa có dấu hiệu bị ảnh hưởng, nhưng hiện nay, nhiều vườn dần bị thiệt hại, thậm chí một số vườn cây đã chết khô. Do đó, địa phương đang có kế hoạch tiếp tục rà soát, thống kê lại toàn bộ diện tích bị ảnh hưởng để đề nghị tỉnh xem xét, hỗ trợ kịp thời cho người dân theo quy định.

- Giá măng cụt tăng gấp đôi do năng suất giảm

Năm nay, một số các loại trái cây ở Trà Ôn năng suất đều giảm hơn so với năm trước như chôm chôm, măng cụt, đặc biệt là măng cụt. Vì vậy, dù thời điểm này giá măng cụt cao tăng gấp đôi so với những năm trước, thương lái mua tại vườn giá từ 35.000 – 40.000 đồng/kg nhưng nông dân không có đủ hàng để bán. Theo thống kế, năm nay năng suất vườn măng cụt giảm đáng kể so với các năm trước. Cá biệt có một số vườn không cho trái khiến nhà vườn chịu cảnh thất thu. Theo đánh giá của ngành chuyên môn và kinh nghiệm của nhà vườn trồng măng cụt, nguyên nhân dẫn đến năng suất măng cụt giảm do ảnh hưởng thời tiết nắng nóng vào giai đoạn ra hoa cùng với ảnh hưởng nước mặn xâm nhập thời gian qua. Vì thế, với tình hình thời tiết ngày càng diễn biến thất thường như những năm gần đây thì nông dân sẽ còn đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức.

Khai thác cá ngừ giảm, ngư dân thua lỗ

Tại một số tỉnh khai thác cá ngừ trọng điểm, sản lượng khai thác giảm như Phú Yên đạt 3.681 tấn, giảm 6,5%; Khánh Hòa đạt 3.032 tấn, giảm 5% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân của tình trạng này theo Bộ NN&PTNT là do ngư trường truyền thống xuất hiện ít cá nên sản lượng các chuyến biển thấp. Bên cạnh đó công nghệ khai thác trên tàu cá chưa được cải tiến nhiều và giá thu mua không cao. Giá cá ngừ thấp cộng với sản lượng khai thác không cao khiến chuyến biển của ngư dân thua lỗ. Ở một số tỉnh không phải là trọng điểm của ngành khai thác cá ngừ đại dương tình hình càng khó khăn hơn. Cụ thể như tại Hà Tĩnh, thu mua nguyên liệu trong 8 tháng của Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Thủy sản Nam Hà chỉ đạt 228 tấn, giảm 40% so với năm 2015... Trong thời gian qua, để đáp ứng đơn hàng, công ty đã phải nhập khẩu nguyên liệu về chế biến. Hiện nay ngư dân vẫn chưa đi đánh bắt nên nhiều khả năng công ty phải ngừng hoạt động trong thời gian tới.

Bình Định: Giá kiệu giống tăng cao

Tuần qua, trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định mưa liên tục nên nông dân tập trung làm đất xuống giống kiệu tết. Vì vậy, giá kiệu giống vốn từ đầu vụ đã cao nay tiếp tục tăng cao chưa từng có. Hiện nay, giá kiệu giống đã tăng đến 60.000 đồng/kg, tăng gần 20.000 đồng/kg so với tuần trước. Nguyên nhân tăng giá chủ yếu do diện tích kiệu giống giảm. Một số địa phương như Tường An, Tân An (xã Mỹ Quang), Diêm Tiêu (thị trấn Phù Mỹ), nhất là thôn Trực Đạo (xã Mỹ Trinh) có nhiều hộ trồng kiệu giống, nhưng năm nay diện tích kiệu giống giảm mạnh. Toàn xã Mỹ Trinh trồng kiệu giống cho vụ kiệu tết 2016 đến 30 héc-ta, nhưng kiệu giống cho vụ tết năm 2017 chỉ còn khoảng 20 héc-ta. Hơn nữa, nắng nóng kéo dài, khó đầu tư thâm canh nên năng suất kiệu giảm gần một nửa. Bên cạnh kiệu giống địa phương, lượng kiệu giống từ miền Nam (chủ yếu là ở Đồng Tháp) chuyển ra khá nhiều nhưng giá cũng cao hơn năm trước cả chục ngàn.

LƯU Ý CẢNH BÁO

Gỡ khó cho thị trường cà phê

Hạn hán, thiên tai gây thiệt hại khá nặng nề cho ngành cà phê trong niên vụ 2015 - 2016 và dự báo sẽ còn để lại di chứng cho niên vụ sau.

Sản lượng cà phê giảm

Chỉ còn hơn 1 tháng nữa là niên vụ cà phê 2015 - 2020 sẽ kết thúc. Với kết quả đạt được đến thời điểm này dự tính về khối lượng cà phê cà phê xuất khẩu là 1,7 triệu tấn. “Chưa bao giờ ngành cà phê lại khó khăn vậy” là cảm nhận của ông Nguyễn Viết Vinh, Tổng Thư ký Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam (Vicofa) khi nói về tình hình xuất khẩu của ngành cà phê thời gian qua. Theo đó, ngay từ đầu vụ tức tháng 10/2015, ngành cà phê đã phải đối mặt với tình hình khô hạn khắc nghiệt nhất trong 3 thập kỷ qua. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến 5 tỉnh Tây Nguyên - vùng trọng điểm trồng cà phê, trong đó, tỉnh Đắk Lắk là tỉnh thiệt hại lớn, tiếp đến là Gia Lai, Lâm Đồng, Kon Tum. Trong tổng số 165.000 héc-ta cây công nghiệp nói chung trên các địa bàn thì cây cà phê chiếm 110.000 héc-ta, trong đó có 40.000 héc-ta chết khô. Hiện giá cà phê nhân xô trong nước đang ở mức 37.000 - 38.000 đồng/kg. Với mức giá này cùng với sản lượng cà phê sụt giảm mạnh, thêm vào đó là nhiều khoản chi phí đầu vào nữa thì khả năng vụ cà phê năm nay bà con ở Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk chỉ hòa vốn.

Không chỉ người dân trồng cà phê ở các tỉnh Tây Nguyên đang đối diện với một vụ mùa mất mát do hạn hán mà ngay cả người trồng cà phê ở một số tỉnh thành như Đồng Nai, Bình Phước… cũng khốn khó bởi nắng hạn. Bà con tại đây cho biết sản lượng mùa 2016 sẽ giảm khoảng 30% thậm chí lên đến 50% bởi tình trạng khô, rụng trái non do thiếu nước tưới.

Hiện ở Tây Nguyên và một số tỉnh thành trồng cà phê đã và đang xuất hiện tình trạng thay vì tái canh thì người dân chặt bỏ cây cà phê để chuyển đổi sang cây trồng khác có giá thị trường hiện ở mức cao. Tuy nhiên, điều này được nhận định sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối, phá vỡ quy hoạch vùng nguyên liệu cây trồng…

Tháo gỡ nút thắt

Tập trung chống hạn, để đảm bảo đủ lượng xuất khẩu cà phê niên vụ 2016 - 2017 là giải pháp trọng tâm, theo ông Phan Hữu Đễ - Cố vấn cao cấp của Vicofa, nên áp dụng các biện pháp như trồng cây che bóng hoặc trồng xen, đa dạng hóa sản phẩm trong vườn cà phê, sử dụng phân hữu cơ, công nghệ tưới nước tiên tiến tiết kiệm. Bên cạnh đó, nghiên cứu sử dụng các giống mới có khả năng chịu hạn và cho năng suất cao như giống lai đa dòng mới TRS1 đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) công nhận.

Ông Mai Trọng Dũng - Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Phát triển Nông thôn tỉnh Đắk Lắk cho biết, toàn tỉnh có gần 273.000 héc-ta cây trồng cần tưới nước, mặc đù đang mùa mưa, nhưng vẫn hạn hán. Trước tình hình này, UBND tỉnh đã yêu cầu các địa phương, đơn vị trong tỉnh chủ động tăng cường các giải pháp phòng và chống hạn nhằm bảo vệ cây cà phê trong niên vụ tới.

Với những khó khăn về hạn hán, ngành cà phê về lâu dài cần phải chuyển hướng có bước đột phá mạnh mẽ về chất lượng mới có thể nâng cao giá trị cà phê xuất khẩu, đem lại lợi nhuận cao cho sản phẩm tháo gỡ khó khăn trong thời điểm này.

Theo ông Lương Văn Tự, Chủ tịch Vicofa cho biết, hiện một số doanh nghiệp bước đầu liên kết với các nông hộ sản xuất cà phê sạch tạo vùng nguyên liệu nhằm góp phần chủ động nguồn hàng cà phê nhân chất lượng cao. Cũng theo ông Tự, đã đến lúc các doanh nghiệp phải tập trung nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất cà phê, cũng như đầu tư mở rộng quy mô, công suất chế biến từ dạng thô sơ sang cà phê bột, cà phê hòa tan... Có như vậy ngành cà phê mới nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng giá trị xuất khẩu trong những năm tiếp theo.

Box; Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Lê Quốc Doanh tiếp tục đạo các đơn vị trực thuộc Bộ kiểm tra, thẩm định, nếu các giải pháp nào phù hợp, hiệu quả sẽ được các ngành và các tỉnh trong khu vực các tỉnh Đông Nam Bộ và Tây Nguyên triển khai thực hiện ngay nhằm chống hạn cho cây cà phê góp phần giảm thiểu những thiệt hại do hạn hán gây ra.

NHẬN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG

Gia Lai: Bí đao, bí đỏ rớt giá mạnh

Hiện nay, các vườn trồng bí đao, bí đỏ ở huyện Đắk Pơ, tỉnh Gia Lai đang lâm vào tình trạng khó khăn do giá giảm mạnh. Thậm chí, nhiều vườn bí chăm bón tới ngày thu hoạch đành cày bỏ vì giá thu mua thấp.

Vụ trước có rất nhiều hộ trong thôn Tư Lương, xã Tân An, huyện Đắk Pơ trúng vụ bí đao nên nhiều đã gom hết tiền đầu tư trồng bí đao chanh. Vụ này, mặc dù bí lên rất tốt, thu hoạch khá nhưng giá đại lý thu gom có xu hướng ngày càng giảm. Tuần trước, đại lý thông báo giá gom là 1.500 đồng/kg nhưng tới trưa, đại lý lại gọi điện báo rằng, giá bí đao giảm chỉ còn 800 đồng/kg. Với giá đó, các chủ vườn không đủ tiền để trả tiền thuê nhân công thu hoạch. Chờ tới cả tuần sau, giá bí không nhích lên và thậm chí gọi thương lái tới gom bí đao cũng chẳng có ai mua. Trước tình hình này, nhiều hộ không bán được bí, không đủ tiền thuê nhân công nên đành bỏ luôn ruộng bí, chấp nhận mất cả vốn lẫn công chăm sóc.

Tương tự, các hộ đồng bào dân tộc ở xã Yang Bắc cũng đầu tư trồng bí đao chanh. Xuống giống từ tháng 4 âm lịch, tới giữa tháng 7 Âm lịch thu hoạch nhưng thương lái không thu mua. Nhiều nhà đành chặt cho bò hoặc nấu cho heo ăn.

Không riêng với người trồng bí đao, mà các hộ trồng bí đỏ cũng thất thu bởi thời tiết thất thường. Trung bình một hộ trồng 1 héc-ta bí đỏ, thu được 15 tấn bí nhưng chỉ có 2 - 3 tấn là bí tuyển, bán được với mức giá 5.000 đồng/kg. Số bí còn lại chỉ bán được giá 2.000 đồng/kg. Như vậy, sau khi tính toán, trừ chi phí, hộ nào hòa vốn coi như may mắn.

Giá muối tăng nhẹ

Do tác động của việc thực hiện mua tạm trữ muối, giá muối trên thị trường đã tăng nhẹ so với tháng trước.

Cụ thể, tại miền Bắc giá muối dao động trong khoảng 1.000 - 1.500 đồng/kg, miền Trung giá muối thủ công 300 - 550 đồng/kg, muối công nghiệp 500 - 700 đồng/kg và khoảng 266 - 600 đồng/kg đối với các tỉnh miền Nam.

Theo số liệu của Cục Chế biến nông lâm sản và nghề muối - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sau hơn 2 tháng mua tạm trữ muối, lượng muối tồn kho trong diêm dân, doanh nghiệp sản xuất và chế biến muối của cả nước vẫn còn hơn 807.000 tấn, tăng hơn cùng kỳ năm trước 195.000 tấn. Tính đến 20/8/2016, sản lượng muối 8 tháng đầu năm nay đạt gần 1,2 triệu tấn. Trong đó, lượng muối tồn trong diêm dân và các doanh nghiệp sản xuất, chế biến khoảng 807.106 tấn, tăng 31% so với cùng kỳ năm 2015. Khu vực có lượng muối tồn kho nhiều nhất vẫn là các tỉnh duyên hải miền Trung với lượng tồn kho lên đến 413.313 tấn, cao hơn cùng kỳ năm trước 100.000 tấn. Nguyên nhân do lo ngại sự cố môi trường biển ở miền Trung nên các công ty kinh doanh muối không muốn thu mua muối sản xuất ở những địa phương này. Mặc dù trước đó, Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản đã đưa ra kết quả kiểm tra cho thấy, muối sản xuất ở các tỉnh miền Trung vẫn an toàn.

Trước tình hình này, Văn phòng Chính phủ đã có Công văn số 4867/VPCP-KTTH gửi các bộ, ngành liên quan về việc mua tạm trữ muối cho diêm dân. Trong đó nêu đích danh Tổng công ty lương thực miền Bắc, một tổng công ty nhà nước thuộc Bộ NN&PTNT quản lý trực tiếp mua tạm trữ cho diêm dân. Sau hai tháng kể từ thời điểm mua tạm trữ, lượng muốn tồn kho trong diêm dân, doanh nghiệp sản xuất và chế biến muối giảm được 45.000 tấn.

CHUYỂN ĐỘNG THỊ TRƯỜNG

Vĩnh Phúc: Nhiều diện tích ngô bị thiệt hại trong cơn bão số 3

Do ảnh hưởng của mưa lớn kéo dài nhiều ngày qua, 173 héc-ta ngô, lúa và rau màu của xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc bị thiệt hại nặng. Trong đó, diện tích cây ngô và rau màu là 155 héc-ta; cây lúa 18 héc-ta; 12 héc-ta thủy sản bị tràn bờ.

Nhiều diện tích ngô trong giai đoạn hình thành răng ngựa chín sinh lý bị ngập nước, gây đổ. Sau đợt mưa lớn kéo dài, toàn bộ diện tích ngô mới xuống giống đã bị ngâm trong nước tới 2 - 3 ngày, không phát triển được. Đối với những diện tích mới xuống giống khoảng 15 ngày đều đã bị thối rễ, vàng lá, ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây. Trước thực trạng trên, xã Vĩnh Ninh đang tích cực chỉ đạo, tuyên truyền, đôn đốc bà con nông dân thực hiện các biện pháp như: Khơi thông rãnh thoát nước, sử dụng máy bơm cá nhân để ứng cứu nhanh những diện tích bị ngập úng. Đặc biệt, bà con lưu ý tháo nước nhanh, kịp thời, không để nước ngập lâu trong ruộng gây thối cây, thối rễ. Chủ động vệ sinh đồng ruộng và chuẩn bị giống để khi nước rút tiếp tục gieo trồng bổ sung, góp phần nhanh chóng ổn định tình hình phát triển sản xuất. Đề xuất các ngành liên quan xuất cấp ngô giống kịp thời cho bà con. Đồng thời, các cán bộ nông nghiệp xã cũng hướng dẫn bà con chuẩn bị lượng giống khác để trồng thay thế diện tích đã bị thiệt hại.

Tây Ninh: Cần rút ngắn thời gian thu hoạch mía để giảm thiệt hại

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tây Ninh cho biết, bước vào vụ thu hoạch và chế biến mía đường 2016 - 2017, tỉnh sẽ yêu cầu các nhà máy đường rút ngắn thời gian tiếp nhận mía để giảm bớt thiệt hại cho nông dân.

Vụ trồng mía năm 2016 - 2017, ba nhà máy đường Thành Thành Công, Nước Trong và Biên Hòa Tây Ninh đã ký hợp đồng với nông dân trồng được 21.500 héc-ta mía nguyên liệu, tăng hơn 1.500 héc-ta so với vụ 2015 - 2016. Do thời tiết năm nay thuận lợi, mưa nhiều, hầu hết diện tích đã được thay cơ cấu giống mới, nên năng suất bình quân ước đạt 75 tấn/héc-ta; sản lượng ước đạt 1,6 triệu tấn mía cây, tăng khoảng 200.000 tấn so với vụ trước. Rút kinh nghiệm từ những năm trước, ngay đầu vụ, tỉnh đã yêu cầu các nhà máy đường rút ngắn thời gian tiếp nhận mía từ 120 ngày xuống còn 100 ngày, để giảm bớt thiệt hại cho nông dân. Bởi trên thực tế, cây mía trồng đến thời kỳ chín rộ chỉ dao động trong thời gian 3 tháng, từ giữa tháng 11 năm trước, đến giữa tháng 2 năm sau. Nếu thu hoạch trễ hơn, mía sẽ khô nhanh, rụi đọt, làm giảm trọng lượng, chữ đường. Đặc biệt, thời tiết thất thường càng làm tăng nguy cơ cháy mía do thời tiết nắng nóng, gây thiệt hại lớn cho người trồng mía. Ví như vụ chế biến mía năm trước kéo dài hơn 120 ngày, cộng với thời tiết nắng nóng gay gắt kéo dài nên toàn tỉnh có gần 2.000 héc-ta (trên 100.000 tấn mía) bị cháy, gây thiệt hại hàng tỷ đồng.

Hiện nay, công suất chế biến đạt 15.000 tấn mía cây/ngày, dự kiến vụ mùa năm nay các nhà máy đường đi vào hoạt động đầu tháng 11/2016 đến cuối tháng 2/2017 sẽ kết thúc.

CHỐNG BUÔN LẬU MUA BÁN GIAN LẬN

Bim bim bẩn - phải triệt từ gốc

Bim bim là món quà vặt không chỉ trẻ em, mà nhiều người lớn cũng thích ăn. Tuy nhiên, bên cạnh sự thơm ngon, hấp dẫn, bim bim cũng chứa nhiều nguy cơ gây bệnh về đường tiêu hóa, tim mạch, béo phì, thậm chí cả bệnh ung thư. Đặc biệt, với bim bim bẩn, nguy cơ này là vô cùng cao.

Nguyên liệu, quy trình sản xuất bim bim bẩn

Nếu có cơ hội tận mắt chứng kiến quy trình sản xuất bim bim ở các cơ sở sản xuất bim bim tại các làng nghề ở La Phù (huyện Hoài Đức, Hà Nội) hay Tân Hội (huyện Đan Phượng, Hà Nội)… hẳn nhiều người sẽ ngay lập tức bỏ thói quen ăn bim bim trước đó.

“Kinh hoàng, hãi hùng” là những gì người ta dùng để miêu tả về các công đoạn sản xuất rất mất vệ sinh của các cơ sở này. Công nhân không bảo hộ lao động, không găng tay, mồ hôi nhễ nhại, đi chân đất xúc từng chậu bim đã trộn, đổ vào lò dầu đen sánh. Công đoạn trộn nguyên liệu được thực hiện ngay trên nền xi măng ẩm ướt. Khu nhà xưởng ngổn ngang máy móc, các can dầu chiên và bao tải nguyên liệu xếp thành từng chồng, bụi bám đầy…

Mất vệ sinh là vậy, nhưng điều đáng lo ngại hơn cả là nguyên liệu dùng để sản xuất các loại bim bim này chủ yếu không có tên tuổi, nhãn mác, một vài loại có nhãn mác thì lại là chữ của Trung Quốc. Kết quả thu giữ, kiểm tra của lực lượng quản lý thị trường, Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia thời gian qua cho thấy, các thông tin về thành phần nguyên liệu ghi trên vỏ túi bim bim như: Bột khoai, bột mỳ, đường tinh luyện, muối ớt, dầu ăn, mỳ chính và “không màu, không chất bảo quản” là hoàn toàn không đúng sự thật. Thậm chí, đa số các loại bim bim được sản xuất từ các cơ sở ở làng nghề đều sử dụng chất nhuộm màu nhân tạo Tartazine (ký hiệu E102) – nguyên liệu chỉ được dùng với hàm lượng cho phép, nếu sử dụng quá nhiều có khả năng gây ung thư, độc tính thần kinh và gây ra chứng hiếu động thái quá ở trẻ em. Vậy nhưng thực tế, không một loại bim bim nào có ghi về thành phần E102, và quá trình pha trộn của các cơ sở đa phần là “ang áng” chứ không có liều lượng chính xác.
Gần đây, các lực lượng chức năng liên tục thu giữ được những lô hàng là nguyên liệu sản xuất bim bim, hoặc bim bim thành phẩm, nhưng hầu hết đều không rõ nguồn gốc xuất xứ, đăng ký chất lượng, đăng ký kinh doanh. Số lượng thu giữ lên đến cả vài tấn. Đây là thực tế vẫn báo động, vì với giá bán 1.000 – 2.000 đồng/gói, bim bim bẩn đang là món quà ăn vặt được hầu hết trẻ em lựa chọn, nhất là trẻ em ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Bim bim bẩn tiêu thụ ở đâu?

Ở làng La Phù có khoảng 100 cơ sở sản xuất bánh kẹo, trong đó có 10 cơ sở sản xuất bim bim. Vậy nhưng, tất cả các gia đình sản xuất bim bim ở đây đều không bao giờ cho con cháu sử dụng loại bim bim do chính họ sản xuất ra. Ngay cả người làm công ở các cơ sở sản xuất cũng không ai ăn loại bim bim này và khuyến cáo con cái, bạn bè, anh em, người thân không nên ăn kẻo sinh bệnh. Tuy nhiên, bim bim bẩn lại được tiêu thụ mạnh tại các cổng trường, chợ nông thôn, đặc biệt là chợ phiên ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa… Trong mỗi chuyến xe hàng vượt núi lên với các phiên chợ ở Hà Giang, Cao Bằng, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu…, xe nào cũng chất ngất những bịch bim bim bao gồm nhiều gói nhỏ, cả bim bim đóng thành cả túi bóng to (bán theo ki-lô-gam, theo lạng). Hàng đổ xuống chợ, đứa trẻ nào được mẹ mua cho một vài gói cũng vui mừng, hớn hở.

Khó có thể trách người bán khi thị trường hàng hóa thật - giả, an toàn và mất an toàn lẫn lộn; cũng không thể cấm những đứa trẻ kia khi món quà hiếm hoi của chúng vốn luôn là những gói bim bim xanh đỏ, rẻ tiền…

Thiết nghĩ, để bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng, trong đó chủ yếu là các em nhỏ, rất cần sự vào cuộc của các cơ quan chức năng để ngăn chặn nguồn cung nguyên liệu sản xuất bim bim không an toàn. Cùng với đó là sự giám sát, kiểm tra và xử phạt nghiêm minh với những cơ sở sản xuất bim bim bẩn. Khi đã chặn được phần gốc này rồi, chắc chắn việc tiêu thụ và sử dụng bim bim bẩn sẽ từng bước được ngăn chặn.

HÀNG VIỆT

Nâng cao sức cạnh tranh cho gà đồi Yên Thế

Từ sau khi sản phẩm gà đồi Yên Thế (Bắc Giang) được Cục Sở hữu Trí tuệ trao bằng chứng nhận nhãn hiệu hàng hóa độc quyền, thương hiệu gà đồi Yên Thế đang càng ngày càng bay xa hơn, góp phần giúp cuộc sống người dân nơi đây từng bước “thay da đổi thịt”.

Sản phẩm hàng hóa mũi nhọn

Yên Thế là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang, có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển các mô hình kinh tế vườn đồi, vườn rừng gắn với phát triển chăn nuôi nhằm tạo ra các sản phẩm hàng hóa mũi nhọn. Nhận thức được lợi thế so sánh của địa phương, những năm qua, huyện Yên Thế đã tập trung xác định con gà là 1 trong 4 loại hàng hóa cần tập trung phát triển.

Trao đổi với phóng viên, ông Vũ Trí Hải, Chủ tịch UBND huyện Yên Thế cho biết, hiện nay chăn nuôi gà đồi tại huyện Yên Thế đã được phát triển mạnh ở hầu hết các xã, thị trấn, tạo ra vùng sản xuất nuôi gà đồi tập trung. Hiện tại, số lượng hộ chăn nuôi gà từ 500 con trở lên có 1.200 hộ, số hộ chăn từ 1.000 - 2.000 trở lên có 700 hộ, số hộ chăn nuôi từ trên 2.000 con có trên 200 hộ; cá biệt đã có nhiều hộ nuôi từ 7.000 - 10.000 con/lứa. Hiện nay, mỗi năm nông dân trong huyện cung ứng ra thị trường 13 - 15 triệu con gà thương phẩm, doanh thu 1.500 tỷ đồng.

Nhờ nuôi gà mà nhiều hộ nông dân đã thoát nghèo, vươn lên làm giàu. Gia đình ông Nguyễn Văn Vương, xã Xuân Lương, huyện Yên Thế là một ví dụ. Ông Vương cho hay, hiện tổng số gà gia đình nuôi lên tới hơn 11.000 con, trừ các khoản chi phí, mỗi năm thu về hơn 200 triệu đồng.

Kiểm soát chất lượng, bảo vệ thương hiệu

Tuy nhiên, ông Vũ Trí Hải, Chủ tịch UBND huyện Yên Thế cũng thừa nhận, trong bối cảnh thực hiện tái cơ cấu ngành chăn nuôi, cũng như trước thềm hội nhập TPP, gà đồi Yên Thế gặp phải không ít khó khăn. Trước hết, cơ chế chính sách liên quan đến tiêu thụ nông sản, cung ứng vật tư phục vụ chăn nuôi nhằm đáp ứng đòi hỏi của hoạt động sản xuất nông nghiệp theo cơ chế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều bất cập. Đồng thời, khả năng tiếp cận kỹ thuật tiên tiến trong chăn nuôi của một số hộ còn hạn chế; thiếu vốn để mở rộng quy mô chăn nuôi hàng hóa. Bên cạnh đó, thời gian qua, các sản phẩm gà với giá rẻ của Mỹ, Hàn Quốc, Thái Lan… nhập khẩu vào nước ta với số lượng lớn và tình trạng gà nhập lậu từ nước ngoài đã ảnh hưởng đến sự phát triển thương hiệu gà đồi Yên Thế.

Để giải quyết khó khăn, UBND huyện đã chỉ đạo tập trung xây dựng chuỗi liên kết từ khâu sản xuất con giống, chăn nuôi chế biến, tiêu thụ khép kín. Theo đó, huyện đã triển khai 2 dự án xây dựng mô hình thí điểm chuỗi liên kết “Chăn nuôi – Thu mua – Tiêu thụ” và “Chăn nuôi – Giết mổ - Chế biến – Tiêu thụ” gà đồi Yên Thế. Hai dự án này đã xây dựng được cơ chế liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong mô hình, nâng cao trách nhiệm kiểm soát về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, tạo niềm tin, uy tín của các chủ thể trong việc hợp tác sản xuất kinh doanh, bảo vệ thương hiệu.

Bên cạnh đó, UBND huyện Yên đã triển khai kế hoạch thực hiện Đề án “Phát triển chăn nuôi gà đồi hàng hóa bền vững giai đoạn 2016 - 2020”. Qua đó, khuyến khích người chăn nuôi duy trì quy mô tổng đàn hợp lý, ổn định, đồng đều từ gà giống tới gà xuất bán, tăng tỷ lệ giống gà ri lai, thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh, kiểm dịch, gắn tem nhãn cho sản phẩm mang nhãn hiệu “Gà đồi Yên Thế”.

Đặc biệt, huyện Yên Thế đã thành lập hợp tác xã sản xuất và tiêu thụ gà đồi Yên Thế. Đây là mô hình điểm trong hoạt động khép kín, quản lý từ con giống đầu vào liên kết với các hộ chăn nuôi với số lượng lớn, trong đó có doanh nghiệp cùng tham gia. Các hộ tham gia phải cam kết với HTX chăn nuôi đảm bảo theo tiêu chuẩn VietGAP, nuôi đủ số lượng, chăm sóc theo đúng quy trình… “Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tiến hành đăng ký bảo hộ sản phẩm ở một số nước khu vực ASEAN và Trung Quốc”, ông Hải nhấn mạnh.

(Thông tin do Báo Công Thương và Cổng Thông tin điện tử UBDT phối hợp thực hiện)