Lịch sử phát triển của Ủy ban Dân tộc

01:01 PM 31/10/2015 |   Lượt xem: 217062 |   In bài viết | 

Quá trình hình thành và phát triển của Ủy ban Dân tộc

Cơ quan công tác dân tộc - với tổ chức tiền thân là Nha Dân tộc thiểu số (thành lập tại Nghị định số 359, ngày 09/9/1946 chiểu theo Sắc lệnh số 58, ngày 03/5/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) với chức năng, nhiệm vụ "Xem xét các vấn đề chính trị và hành chính thuộc về các dân tộc thiểu số (DTTS) trong nước và thắt chặt tình thân thiện giữa các dân tộc sống trên đất Việt Nam".

Những nhiệm vụ đầu tiên của Nha Dân tộc thiểu số là mở Trường Đào tạo cán bộ dân tộc mang tên “Nùng Chí Cao”, khóa học đầu tiên tại Hà Nội được Bác Hồ tới thăm. Lớp cán bộ dân tộc do trường đào tạo sau đó tỏa đi khắp cả nước tham gia công tác trên các lĩnh vực, phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Nha Dân tộc thiểu số đã tổ chức thực hiện công tác vận động đồng bào các dân tộc nhận rõ âm mưu chia rẽ của kẻ thù, tập hợp nhân dân tham gia các tổ chức, đoàn thể, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, bảo vệ cơ sở cách mạng, làm cho vùng dân tộc thực sự là chỗ dựa vững chắc của Đảng và Chính phủ.

Trong thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội các DTTS miền Nam tại PlâyCu (năm 1946) có đoạn: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các DTTS khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Trước kia chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu giây liên lạc, hai là vì có kẻ xui giục để chia rẽ chúng ta. Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có “NHA DÂN TỘC THIỂU SỐ” để săn sóc cho tất cả các đồng bào”.

Nghị định số 359 ngày 09/9/1946 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã xác định: "Nha Dân tộc thiểu số có nhiệm vụ nghiên cứu và giải quyết mọi vấn đề liên quan đến các DTTS trong toàn cõi Việt Nam, để củng cố, trên nguyên tắc bình đẳng sự đoàn kết và tương trợ giữa các dân tộc sống trên đất Việt Nam".

Nha Dân tộc thiểu số gồm có:

- Một văn phòng phụ trách các việc công văn, hồ sơ, vật liệu, kế toán và viên chức.

- Một ban nghiên cứu có nhiệm vụ sưu tầm tài liệu và nghiên cứu mọi vấn đề chính trị, hành chính, văn hóa, xã hội, kinh tế và tài chính có quan hệ mật thiết đến các DTTS.

- Một ban tuyên truyền có nhiệm vụ củng cố tinh thần đoàn kết và tình thân ái giữa các dân tộc và chống mọi mưu mô chia rẽ. Ban tuyên truyền sẽ liên lạc với Nha Thông tin Tuyên truyền toàn quốc để thực hiện chương trình tuyên truyền chung trong phạm vi DTTS.

- Một ban thanh tra có nhiệm vụ: Giám sát các công việc hành chính và chính trị ở các miền có DTTS; thảo luận với các cơ quan hành chính ở các miền đó để cùng giải quyết những vấn đề khó khăn, theo chính sách chung của Chính phủ; thảo luận với ban nghiên cứu và đề nghị lên Chính phủ những sự cải cách thích hợp về hành chính và chính trị. Ban thanh tra sẽ mật thiết liên lạc với Nha Thanh tra toàn quốc để thi hành nhiệm vụ được dễ dàng.

- Một ban kinh tế có nhiệm vụ giải quyết vấn đề tiếp tế cho các miền có DTTS và giúp đỡ một cách thiết thực các DTTS trong các công cuộc kiến thiết.

- Một ban tiếp đãi phụ trách việc đón tiếp các đồng bào thiểu số.

Giám đốc Nha Dân tộc thiểu số là đồng chí Hoàng Văn Phùng.

Nha Dân tộc thiểu số mới thành lập chưa được bao lâu thì thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vùng dân tộc và miền núi trở thành căn cứ địa vững chắc cho cuộc kháng chiến trường kỳ.

Năm 1947, thành lập Tổ Nghiên cứu dân tộc thuộc Ban Mặt trận - Dân vận Trung ương, tiếp tục nhiệm vụ của Nha Dân tộc thiểu số với phương hướng hoạt động công tác dân tộc phù hợp với tình hình mới: “Mọi ngành công tác ở vùng đồng bào thiểu số phải có kế hoạch riêng, không thể chỉ đặt kế hoạch, chỉ thị chung như từ trước tới nay. Mỗi vùng thiểu số to trong nước cần lập một Ban Vận động đồng bào thiểu số để nghiên cứu kế hoạch cho sát, đặc biệt chú ý mở trường đào tạo cán bộ thiểu số riêng như khu V, khu XIV đã làm. Phổ biến những kinh nghiệm quý báu về vấn đề vận động đồng bào thiểu số của khu V và khu XIV. Chính phủ phải có một Quỹ đặc biệt chi về việc vận động và giúp đỡ đồng bào thiểu số”.

Tổ Nghiên cứu dân tộc do đồng chí Hoàng Quốc Việt phụ trách và chỉ đạo. Giai đoạn này, cơ quan công tác dân tộc trở thành một bộ phận quan trọng của Mặt trận Dân tộc thống nhất, vừa là tổ chức tham mưu về dân tộc của Chính phủ kháng chiến; một mặt vận động đồng bào các dân tộc huy động sức người, sức của ủng hộ kháng chiến, mặt khác vận động các tộc trưởng, tù trưởng, phìa tạo... đi theo kháng chiến, đoàn kết trong Mặt trận Dân tộc thống nhất. Bộ phận nghiên cứu chính sách dân tộc đã bước đầu có những tổng kết hoạt động thực tiễn, giúp Trung ương có những điều chỉnh nội dung, phương pháp công tác dân tộc, đặc biệt là chuẩn bị cho việc xác định đường lối, chủ trương của Đảng về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc tại Đại hội II (tháng 02/1951), Nghị quyết của Bộ Chính trị về “Chính sách DTTS của Đảng ta hiện nay” (tháng 8-1952). Đây là những văn kiện đề cập đến công tác dân tộc được thực thi trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự nhằm phục vụ cao nhất cho công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhiều nội dung công tác dân tộc đã được thực hiện: Tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác dân tộc ở nhiều vùng trên phạm vi cả nước; Liên khu V tổ chức Hội nghị Đại biểu các DTTS với gần 300 đại biểu tham dự, tổng kết rút kinh nghiệm tổ chức kháng chiến, kinh nghiệm xây dựng làng chiến đấu Si Tơ (Kon Tum), kinh nghiệm từ vụ việc ở Sơn Hà (Quảng Ngãi), kinh nghiệm phá tan âm mưu của địch lập các ổ nhóm vũ trang ở vùng dân tộc... Trải qua 9 năm kháng chiến, công tác dân tộc đã góp phần to lớn vào sự nghiệp chung do Đảng và Bác Hồ lãnh đạo, cùng với nhân dân cả nước tiến hành kháng chiến thắng lợi, mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ (năm 1954).

Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, từ sau năm 1954 công tác dân tộc được tổ chức thực hiện với những nội dung và hình thức hoạt động mới phù hợp với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Ở miền Nam, cơ quan công tác dân tộc được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục. Các tỉnh Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ vận động nhân dân các dân tộc đoàn kết chống lại âm mưu chia rẽ với chính sách “chia để trị” của địch; chống lại cái gọi là Mặt trận Fulrô đòi tự trị giả hiệu; chống lại việc dồn dân lập “ấp chiến lược”... Các tỉnh miền Tây Nam Bộ, thành lập các Ban Khmer vận của tỉnh và một số huyện, đã tuyên truyền vận động bà con dấy lên phong trào chống Mỹ - Ngụy rộng khắp, bằng các cuộc biểu tình, đồng khởi, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, hoạt động bí mật với công khai và bán công khai... đã tạo nên phong trào cách mạng trong đồng bào Khmer Nam Bộ, góp phần đáng kể vào phong trào cách mạng ở miền Nam. Các tỉnh duyên hải Trung Bộ đã vận động các DTTS xây dựng các căn cứ địa vững chắc, tổ chức đồng bào trực tiếp chiến đấu đánh địch như ở Bác Ái, Phước Chiến... hình thành các buôn làng kiên cường, lập nhiều chiến công to lớn, nhiều thắng lợi vẻ vang, đoàn kết các dân tộc được tăng cường gắn bó trong đấu tranh chống Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Công tác dân tộc ở miền Bắc trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa và kháng chiến chống Mỹ cứu nước có những điều chỉnh về nội dung hoạt động và bộ máy tổ chức: Đầu năm 1955 "Thành lập Tiểu Ban Dân tộc ở Trung ương dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương. Về mặt chính quyền, bộ máy DTTS trực thuộc với Thủ tướng Phủ và tạm thời đặt ở Ban Nội chính”. Từ đây cơ quan dân tộc có hai chức năng: Tham mưu cho Trung ương Đảng về vấn đề dân tộc và giúp Chính phủ phụ trách một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Tiểu Ban Dân tộc Trung ương có các nhiệm vụ: “Nghiên cứu tình hình dân tộc và kiểm tra đôn đốc việc thực hành chính sách dân tộc ở các vùng DTTS, kể cả ở khu vực tự trị. Nghiên cứu giúp Trung ương đề ra chủ trương thực hiện chính sách dân tộc và phối hợp với các Bộ, các cơ quan ở cấp trung ương trong việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ ở các vùng DTTS. Trực tiếp phụ trách thực hiện một số công tác như đào tạo cán bộ DTTS, tổ chức các cuộc gặp gỡ giữa các dân tộc...".

Ngày 01/02/1955, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 447/TTg, quy định cụ thể nhiệm vụ của Tiểu Ban Dân tộc, ngoài những nhiệm vụ nói trên, bổ sung thêm việc soạn và xuất bản tài liệu giới thiệu về các dân tộc.

Tiểu Ban Dân tộc Trung ương do đồng chí Bùi San làm Trưởng Tiểu Ban.

Năm 1959, thành lập Ủy ban Dân tộc thuộc Hội đồng Chính phủ và có quyền hạn trách nhiệm ngang Bộ. “Ủy ban Dân tộc có nhiệm vụ giúp Chính phủ nghiên cứu và thực hiện chính sách dân tộc nhằm tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc theo nguyên tắc bình đẳng tương trợ và tạo điều kiện cho các DTTS tiến bộ mau chóng về mọi mặt theo chủ nghĩa xã hội".

Ngày 06/3/1959, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 102/TTg, quy định nhiệm vụ của Ủy ban Dân tộc Chính phủ:

- Nghiên cứu tình hình, đặc điểm các DTTS, giúp Chính phủ vạch các chính sách dân tộc.

- Nghiên cứu giúp Chính phủ vạch kế hoạch xây dựng các khu vực tự trị dân tộc và thực hiện kế hoạch đó.

- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách dân tộc và giúp các Bộ trong việc nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện chính sách cụ thể phát triển kinh tế, văn hóa, củng cố vùng DTTS về mọi mặt.

- Chỉ đạo các Ban Dân tộc địa phương về mặt nghiệp vụ.

- Trực tiếp quản lý Trường Cán bộ dân tộc, tổ chức những đoàn đại biểu dân tộc đi tham quan, tiến hành những công tác khác có liên quan đến chính sách dân tộc do Chính phủ giao.

Nghị định 102/TTg còn quy định: “UBDT có thể ra Thông tư giải thích đường lối, chính sách và chủ trương của Chính phủ đối với vùng DTTS và hướng dẫn các cấp hành chính thi hành đường lối, chính sách và các chủ trương đó. Các Ủy ban hành chính các khu tự trị, các tỉnh miền núi và vùng có DTTS xen kẽ, có nhiệm vụ báo cáo về tình hình công tác thực hiện chính sách dân tộc cho UBDT. UBDT phối hợp và góp ý kiến với các Bộ trong việc nghiên cứu và thực hiện mọi chính sách với các vùng DTTS. Các Bộ có nhiệm vụ thông báo cho UBDT các chính sách, chủ trương cụ thể và tình hình công tác của ngành mình ở các vùng DTTS, gửi bản sao các chỉ thị, thông tư và báo cáo về vấn đề đó cho UBDT”. Về bộ máy tổ chức, UBDT có: Văn phòng, Vụ Nội chính, Vụ Nghiên cứu, Vụ Tuyên giáo, Trường Cán bộ dân tộc và một số đơn vị sự nghiệp do UBDT thành lập sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.

Ngày 03/4/1959, Chính phủ ra Nghị định số 349/CP thành lập “Khu đào tạo cán bộ dân tộc miền Nam trực thuộc UBDT, có nhiệm vụ: “Bồi dưỡng văn hóa, chính trị cho cán bộ dân tộc miền Nam. Tổ chức cơ sở sản xuất tập thể về nông nghiệp, thủ công nghiệp để học tập, tạo điều kiện tự túc một phần đồ dùng, thực phẩm để nâng cao mức sinh hoạt. Tiếp thu, quản lý tất cả các cán bộ dân tộc miền Nam hiện đang công tác ở miền Bắc. Tổ chức an dưỡng cho những người già trong cán bộ dân tộc miền Nam. Nghiên cứu thực hiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ dân tộc...”. Thời kỳ 1959-1960, đồng chí Chu Văn Tấn là Trưởng Ban Dân tộc Trung ương và Chủ nhiệm UBDT Chính phủ.

Năm 1961, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của UBDT được quy định cụ thể hơn tại Nghị định số 133/CP ngày 29/9/1961 của Chính phủ: “UBDT là cơ quan của Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, nhằm tăng cường đoàn kết các dân tộc theo nguyên tắc bình đẳng và tương trợ, tạo điều kiện cho các DTTS cùng nhân dân toàn quốc tiến nhanh về mọi mặt lên chủ nghĩa xã hội”. Cơ cấu tổ chức bộ máy của UBDT gồm: Văn phòng, Vụ Nội chính, Vụ Dân sinh, Vụ Tuyên giáo và một số đơn vị sự nghiệp như Trường Cán bộ dân tộc, Tạp chí Dân tộc. Đến năm 1968, giải thể Vụ Nội chính và Vụ Dân sinh, thành lập các Vụ Địa phương và Vụ Tổng hợp theo Nghị định số 34/CP ngày 05/3/1968 của Hội đồng Chính phủ (các Vụ Địa phương gồm: Vụ I theo dõi và nghiên cứu tình hình dân tộc Tày, Nùng, Hoa và các dân tộc khác sinh sống ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hải Ninh, Vĩnh Phú, Bắc Giang. Vụ II theo dõi và nghiên cứu tình hình các dân tộc Thái, Mèo, Dao và các dân tộc khác sinh sống ở các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ, Hà Giang. Vụ III, theo dõi và nghiên cứu tình hình các dân tộc Mường, Vân Kiều và các dân tộc khác sinh sống ở các tỉnh Hoà Bình, Hà Đông, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình và khu vực Vĩnh Linh. Vụ IV, theo dõi và nghiên cứu các DTTS ở miền Nam). Vụ Tổng hợp có nhiệm vụ "Tổng hợp tình hình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Chính phủ về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và đào tạo cán bộ dân tộc. Nghiên cứu các vấn đề lớn về chính sách có quan hệ chung đến các dân tộc. Góp ý kiến với các ngành về chính sách cụ thể đối với các vùng dân tộc". Thời kỳ 1960-1976, Trưởng Ban Dân tộc Trung ương và Chủ nhiệm UBDT là đồng chí Lê Quảng Ba.

Công tác dân tộc trong giai đoạn này là phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước. Miền Bắc tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ đi lên CNXH, hậu thuẫn vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đồng bào các dân tộc ở miền Nam tiếp tục sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ, trực tiếp đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, cùng với cả nước “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào”, viết nên trang sử hào hùng của Dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX.

Sau ngày Nam - Bắc sum họp một nhà, non sông thu về một mối, công tác dân tộc triển khai trên phạm vi cả nước với những nội dung và yêu cầu mới: Tập trung ổn định sản xuất và đời sống, giải quyết các vấn đề xã hội do hậu quả chiến tranh để lại. Một số địa bàn vùng dân tộc cần có những yêu cầu chỉ đạo, cụ thể (như công tác dân tộc ở vùng đồng bào Khmer Nam Bộ, vùng đồng bào Chăm, vùng Tây Nguyên...); tiếp tục đẩy mạnh công tác định canh định cư, theo dõi kiểm tra việc thực hiện các chính sách xã hội (ưu tiên cấp thuốc chữa bệnh, muối, dầu hỏa... đối với vùng cao); tham mưu giúp Chính phủ ban hành các chính sách miễn giảm thuế, nghĩa vụ... đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, giải quyết tự túc lương thực tại chỗ... Nhờ có sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, cùng với sự nỗ lực của các cấp các ngành, đồng bào các DTTS trong cả nước luôn tin tưởng, giữ trọn niềm tin vào Đảng và Bác Hồ, vượt qua mọi thử thách, khó khăn, cùng với quân dân cả nước anh dũng chiến đấu, bảo vệ vững chắc biên cương đất nước, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng chí Vũ Lập là Trưởng Ban Dân tộc Trung ương và Chủ nhiệm UBDT thời kỳ 1976-1979.

Năm 1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 38/QĐ-TW, ngày 14/5/1979 quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức Ban Dân tộc Trung ương và của các tỉnh: “Ban Dân tộc là cơ quan tham mưu, giúp việc của Trung ương (hoặc cấp ủy địa phương) về vấn đề dân tộc ít người”. Nhiệm vụ của Ban Dân tộc Trung ương là:

- Giúp Trung ương chuẩn bị hoặc tham gia chuẩn bị các Hội nghị của Trung ương bàn về đường lối, chính sách của Đảng về vấn đề dân tộc. Đối với các vấn đề chung của Đảng về vấn đề dân tộc có liên quan đến nhiều ngành, Ban chủ trì giúp Trung ương chuẩn bị; đối với các vấn đề cụ thể thuộc phạm vi cơ quan nào phụ trách thì cơ quan đó chuẩn bị. Ban có trách nhiệm tham gia chuẩn bị và phát biểu chính thức ý kiến của mình trước khi trình Trung ương để quyết định. Ban phối hợp và đề xuất ý kiến với Ban Tổ chức Trung ương trong việc nghiên cứu chính sách đối với cán bộ người dân tộc ít người.

- Giúp Trung ương kiểm tra việc chấp hành đường lối chính sách của Đảng về vấn đề dân tộc. Qua kiểm tra, phát hiện các mặt tốt để phát huy, những khuyết điểm cần khắc phục; đồng thời đề xuất với Trung ương những vấn đề về chính sách, chủ trương công tác liên quan đến vấn đề dân tộc ít người mà các ngành cần nghiên cứu hoặc chỉ đạo để giải quyết.

- Phát hiện và tổng hợp các vấn đề chính trị của các dân tộc ít người như tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân các dân tộc, mối quan hệ giữa các dân tộc, những vấn đề có tính chất chính trị trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của các ngành, các cấp ở các vùng dân tộc, nhằm bảo đảm những quan điểm của Trung ương về vấn đề dân tộc được thực hiện đầy đủ, tăng cường khối đoàn kết thống nhất giữa các dân tộc trong cả nước.

Ở các tỉnh có Ban Dân tộc, nhiệm vụ của Ban Dân tộc tỉnh là giúp cấp uỷ theo dõi, kiểm tra và tổng hợp tình hình chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và chủ trương của cấp ủy về vấn đề dân tộc; nghiên cứu các vấn đề về chấp hành chính sách của Đảng đối với các dân tộc ở địa phương theo yêu cầu của cấp ủy và phối hợp với Ban Dân tộc Trung ương trong việc nghiên cứu và kiểm tra các vấn đề về chính sách của Đảng đối với các dân tộc theo sự chỉ đạo của cấp ủy.

Căn cứ chương trình làm việc của Trung ương (hoặc của cấp ủy), Ban Dân tộc lập chương trình công tác của Ban và thực hiện chương trình công tác đó. Trưởng Ban hoặc Phó Trưởng Ban được tham dự các kỳ họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư (hoặc của cấp uỷ) bàn về vấn đề dân tộc ít người. Ban được cung cấp các thông tin cần thiết như các Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo của Trung ương và Báo cáo do các địa phương, các ngành gửi lên Trung ương (hoặc cấp uỷ) về những vấn đề quan trọng có liên quan đến chính sách dân tộc. Ban Dân tộc quan hệ chặt chẽ với các Ban khác, với các Ban Cán sự Đảng, Đảng đoàn ở các ngành cùng cấp, để trao đổi ý kiến về những vấn đề có liên quan đến chính sách dân tộc, phối hợp nghiên cứu, kiểm tra những vấn đề về dân tộc theo các quy định của Trung ương (hoặc của cấp uỷ). Ban được yêu cầu các địa phương, các ngành cung cấp những tư liệu cần thiết về vấn đề dân tộc có liên quan trách nhiệm công tác của Ban. Ban Dân tộc Trung ương được quan hệ với các tổ chức làm công tác dân tộc ở Trung ương và địa phương để trao đổi kinh nghiệm, hướng dẫn nghiệp vụ, phối hợp kiểm tra hoặc nghiên cứu những vấn đề về chính sách dân tộc ở địa phương. Ban có nhiệm vụ báo cáo, thỉnh thị, phản ánh tình hình thực hiện chính sách dân tộc và những vấn đề khác có quan hệ đến công tác dân tộc lên Bộ Chính trị, Ban Bí thư (hoặc cấp uỷ).

Ở các tỉnh miền núi và các tỉnh có nhiều dân tộc ít người (khoảng từ 3 vạn trở lên) thành lập Ban Dân tộc của cấp ủy, biên chế khoảng 5 đến 7 cán bộ nghiên cứu. Cần lựa chọn cán bộ đủ tiêu chuẩn để bảo đảm làm tốt chức trách của Ban; trường hợp chưa có cán bộ có chất lượng để thành lập Ban thì tạm thời có 1 hoặc 2 cán bộ đặt trong Ban Dân vận - Mặt trận để giúp cấp uỷ theo dõi, nắm tình hình.

Như vậy là từ năm 1955, hai cơ quan làm công tác dân tộc của Trung ương Đảng và của Chính phủ hầu như thống nhất trong một tổ chức, nhất là từ năm 1959 nâng lên UBDT của Chính phủ (cơ quan ngang Bộ) với Ban Dân tộc Trung ương, cùng một trụ sở (số 80 Phan Đình Phùng, Hà Nội), có hai con dấu của cơ quan Đảng và cơ quan Chính phủ, thực hiện hai chức năng: Tham mưu cho Trung ương Đảng và quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc.

Từ năm 1979-1982, đồng chí Hoàng Văn Kiểu là Trưởng Ban Dân tộc Trung ương và Chủ nhiệm UBDT của Chính phủ. Thời kỳ 1982-1989, Trưởng Ban Dân tộc Trung ương là đồng chí Hoàng Trường Minh. (Năm 1987, có Quyết định số 78/HĐNN ngày 16/02/1987 của Hội đồng Nhà nước giải thể UBDT của Chính phủ).

Để tăng cường tổ chức cơ quan dân tộc, ngày 25/8/1988 Ban Bí thư Trung ương ra Quyết định số 62/QĐ-TW về chức năng, nhiệm vụ của Ban Dân tộc Trung ương, đã xác định: “Ban Dân tộc Trung ương có chức năng làm tham mưu tổng hợp cho Trung ương Đảng về công tác DTTS” và có các nhiệm vụ:

- Nghiên cứu, tổng hợp các vấn đề dân tộc và công tác dân tộc, kiến nghị với Trung ương Đảng những vấn đề về chủ trương, chính sách đối với các DTTS.

- Kiểm tra việc thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về vấn đề DTTS ở các cấp uỷ Đảng, các tổ chức chính quyền và các đoàn thể.

- Làm công tác tổ chức cán bộ theo quy định của Trung ương. Phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương nghiên cứu công tác xây dựng Đảng ở vùng DTTS và xây dựng chính sách đối với cán bộ DTTS.

- Hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác dân tộc ở các ngành và bộ phận chuyên trách làm công tác dân tộc của các cấp uỷ địa phương.

Bộ máy giúp việc của Ban gồm có: Vụ Kế hoạch - Đời sống, Vụ Văn hoá, Giáo dục và Y tế, Vụ Chính trị (bao gồm các lĩnh vực xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, an ninh quốc phòng), Văn phòng Ban (gồm có bộ phận nghiên cứu tổng hợp, Phòng Hành chính-Quản trị và Phòng Tổ chức-Cán bộ cơ quan). Biên chế của Ban gọn nhẹ, sắp xếp phù hợp với chức năng nhiệm vụ, coi trọng chất lượng; gồm những cán bộ có phẩm chất, có năng lực nghiên cứu, tổng hợp, có tinh thần đổi mới, có kiến thức về kinh tế xã hội, có khả năng kinh nghiệm công tác ở vùng dân tộc thiểu số, hiểu biết về công tác tổ chức cán bộ và xây dựng Đảng. Ngoài số cán bộ trong biên chế, Ban được thực hiện chế độ cộng tác viên để phục vụ công tác nghiên cứu, kiểm tra theo yêu cầu của Ban. Ban Dân tộc Trung ương bàn bạc thống nhất với Ban Tổ chức Trung ương về biên chế và chế độ sử dụng cộng tác viên của Ban. Ban quan hệ chặt chẽ với các Ban của Trung ương Đảng, với Văn phòng Trung ương, Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, với các cấp các ngành để trao đổi những vấn đề có liên quan đến chính sách dân tộc.

Từ năm 1989-1992, đồng chí Nông Đức Mạnh là Trưởng Ban Dân tộc Trung ương. Ban Dân tộc Trung ương đã cùng các cơ quan hữu quan nghiên cứu, chuẩn bị nội dung để Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày 27/11/1989 về "Một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi". Đây là văn kiện quan trọng của Đảng, mở đường cho sự đổi mới hoạt động công tác dân tộc. Nghị quyết 22 chỉ rõ: “Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với miền núi; kiện toàn tổ chức và tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ của các cơ quan tham mưu, đủ sức giúp Trung ương cả trong công tác nghiên cứu, ban hành chính sách cũng như việc kiểm tra việc tổ chức thực hiện chính sách dân tộc, chính sách kinh tế, xã hội ở miền núi”.

Để tăng cường sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ đối với công tác dân tộc và thực hiện Quyết định 72/HĐBT, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ra Quyết định số 147/CT ngày 11/5/1990 thành lập Văn phòng Miền núi và Dân tộc, để giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo công tác miền núi và dân tộc. Văn phòng Miền núi và Dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, có các nhiệm vụ và quyền hạn:

- Theo dõi đôn đốc, kiểm tra các ngành, các cấp trong việc thực hiện các quyết định của Đảng và Nhà nước về những chủ trương, chính sách đối với miền núi và dân tộc.

- Phối hợp với các Ban của Đảng, các Bộ, ngành nghiên cứu hoặc chủ trì nghiên cứu đề xuất các chủ trương, chính sách, luật pháp về miền núi và dân tộc, để Hội đồng Bộ trưởng xem xét quyết định hoặc trình Hội đồng Nhà nước quyết định.

- Tham gia với các Bộ, ngành, địa phương về việc quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sắp xếp cán bộ chủ chốt là người dân tộc làm công tác chính quyền.

- Thực hiện quan hệ với nước ngoài về vấn đề dân tộc.

- Yêu cầu các Bộ, Ủy ban Nhà nước, các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để bàn những vấn đề miền núi và dân tộc.

- Mời các Bộ, Ủy ban Nhà nước, các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để bàn về những vấn đề miền núi và dân tộc.

- Kiểm tra các Bộ, Ủy ban nhà nước, cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách đối với miền núi và dân tộc; kiến nghị với cơ quan được kiểm tra thi hành các biện pháp cần thiết hoặc sửa chữa những việc sai trái (nếu có) nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách đối với miền núi và dân tộc.

Văn phòng Miền núi và Dân tộc do đồng chí Bộ trưởng chuyên trách công tác miền núi và dân tộc trực tiếp làm Chủ nhiệm. Văn phòng có 1 đến 2 Phó Chủ nhiệm, bộ máy làm việc gồm có một số tổ chuyên viên, được sử dụng con dấu và có ngân sách riêng. Trụ sở của Văn phòng Miền núi và Dân tộc đặt tại 80 Phan Đình Phùng, Hà Nội (trụ sở UBDT của Chính phủ trước đây và hiện nay).

Đồng chí Hoàng Đức Nghi là Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Miền núi và Dân tộc từ năm 1990 và sau đó là Bộ trưởng - Chủ nhiệm UBDT&MN từ năm 1992-2002.

Năm 1992, Bộ Chính trị quyết định hợp nhất hai cơ quan Ban Dân tộc Trung ương và Văn phòng Miền núi và Dân tộc để xây dựng thành cơ quan UBDT&MN. Lập Ban Cán sự Đảng Ủy ban Dân tộc và Miền núi làm nhiệm vụ tham mưu cho Đảng về công tác dân tộc và miền núi (Thông báo số 33/TB-TW ngày 05/10/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng). Ngày 20/2/1993, Chính phủ ra Nghị định số 11/CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của UBDT&MN: UBDT&MN là cơ quan của Chính phủ, có chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực công tác dân tộc và miền núi trong phạm vi cả nước, đồng thời là cơ quan tham mưu cho Trung ương Đảng và Chính phủ về chính sách chung và chính sách cụ thể đối với miền núi có các DTTS.

Tổ chức bộ máy của UBDT&MN gồm có: Văn phòng, Vụ Tổng hợp, Vụ Chính sách Dân tộc và Miền núi, Vụ Tổ chức-Cán bộ, Vụ Hợp tác Quốc tế và Cục Định canh định cư (được tổ chức trên cơ sở Ban Định canh định cư từ Bộ Lâm nghiệp chuyển sang).

Năm 1995, theo Quyết định số 820/TTg ngày 15/12/1995 của Thủ tướng Chính phủ: Chuyển Cục Định canh định cư từ UBDT&MN sang Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Cơ quan đặc trách về công tác dân tộc Khmer Nam bộ được thành lập trên cơ sở chuyển Phân ban Dân tộc Nam bộ (thuộc Ban Dân tộc Trung ương trước đây) theo Quyết định số 456/TTg, ngày 07/9/1993 của Thủ tướng Chính phủ.

Để thực hiện chức năng vừa là cơ quan quản lý nhà nước, vừa làm tham mưu cho Trung ương Đảng về các lĩnh vực công tác dân tộc và miền núi, ngày 05/6/1998, Ban Tổ chức Trung ương có Công văn số 657/TC-TW thông báo ý kiến của Thường vụ Bộ Chính trị bổ sung một số quy định cụ thể như sau:

- Nghiên cứu, tổng hợp các vấn đề dân tộc, miền núi, kiến nghị với Trung ương Đảng những chủ trương, chính sách đối với miền núi và các DTTS.

- Chuẩn bị hoặc tham gia chuẩn bị các dự thảo Nghị quyết, Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị về chủ trương, chính sách với miền núi và các DTTS và miền núi.

- Làm công tác tổ chức và cán bộ theo quy định của Trung ương, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương nghiên cứu công tác xây dựng Đảng ở vùng DTTS và xây dựng chính sách đối với cán bộ dân tộc miền núi.

- Hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác dân tộc và miền núi ở các Bộ, ngành Trung ương và các cấp uỷ đảng địa phương.

Con dấu của Ban Cán sự Đảng UBDT&MN dùng để quan hệ và làm việc với các Ban Cán sự Đảng, Đảng đoàn ở Trung ương và cấp uỷ địa phương như một Ban của Đảng. UBDT&MN được dự các cuộc họp giao ban Thường vụ, Thường trực Bộ Chính trị với các Ban Đảng theo định kỳ; được tiếp nhận thông tin của Văn phòng Trung ương như các Ban Đảng ở Trung ương.

Cũng trong năm 1998, UBDT&MN tiếp tục được kiện toàn về tổ chức theo Nghị định số 59/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy: UBDT&MN là Cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc và miền núi trong phạm vi cả nước, đồng thời là cơ quan tham mưu cho Trung ương Đảng về chủ trương, chính sách đối với các DTTS và miền núi.

UBDT&MN thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ quy định tại Nghị định số 15/CP ngày 02/3/1993 của Chính phủ.

Năm 2002, theo Nghị quyết kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XI (số 02/2002/QH11 ngày 5/8/2002), UBDT&MN trở lại với tên gọi ỦY BAN DÂN TỘC (như năm 1959).

Ngày 16/5/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 51/2003/NĐ-CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của UBDT: UBDT là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ có chức năng QLNN về lĩnh vực công tác dân tộc trong phạm vi cả nước; QLNN các dịch vụ công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc Ủy ban quản lý theo quy định của pháp luật.

UBDT có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 5/11/2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.

UBDT có các Ủy viên kiêm nhiệm là đại diện Lãnh đạo một số Bộ, ngành, cơ quan Trung ương (có 7 đồng chí Uỷ viên kiêm nhiệm là Thứ trưởng các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Lao động-Thương binh và Xã hội, Văn hoá-Thông tin, Giáo dục và Đào tạo, Nội vụ và Phó trưởng Ban Tôn giáo của Chính phủ).

Hệ thống cơ quan công tác dân tộc tại địa phương được quy định tại Nghị định số 53/2004/NĐ-CP ngày 18/2/2004 về kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc thuộc UBND các cấp, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về công tác dân tộc, theo nguyên tắc:

- Tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác dân tộc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

- Phù hợp với nhiệm vụ, khối lượng công việc và yêu cầu thực tiễn ở địa phương về công tác dân tộc.

- Tinh gọn, hiệu quả; tổ chức sở, ban, phòng quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực phù hợp với chủ trương cải cách hành chính.

Tiêu chí và mô hình tổ chức làm công tác dân tộc ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:

- Thành lập Ban Dân tộc là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng QLNN về lĩnh vực công tác dân tộc, có con dấu, tài khoản riêng khi có ít nhất một trong ba tiêu chí sau:

+ Có trên 20.000 người DTTS sống tập trung thành cộng đồng làng, bản;

+ Có dưới 5.000 người DTTS đang cần Nhà nước tập trung giúp đỡ, hỗ trợ phát triển;

+ Có đồng bào DTTS sinh sống ở địa bàn xung yếu về an ninh, quốc phòng; địa bàn xen canh, xen cư; biên giới có đông đồng bào DTTS nước ta và nước láng giềng thường xuyên qua lại.

- Đối với những tỉnh có đồng bào DTTS sinh sống nhưng chưa đáp ứng các điều kiện quy định nói trên thì tổ chức làm công tác dân tộc theo một trong hai mô hình sau:

+ Ban Dân tộc trực thuộc UBND cấp tỉnh, chịu sự lãnh đạo trực tiếp UBND tỉnh về công tác chuyên môn, Văn phòng UBND tỉnh đảm bảo cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện và điều kiện làm việc.

+ Sở có chức năng QLNN đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có công tác dân tộc và công tác chuyên môn khác có liên quan nhiều đến công tác dân tộc trực thuộc UBND cấp tỉnh.

- Đối với tổ chức làm công tác dân tộc ở quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh theo các tiêu chí:

+ Thành lập Phòng Dân tộc thuộc UBND cấp huyện khi có một trong hai tiêu chí:

* Có ít nhất 5.000 người DTTS đang cần Nhà nước tập trung giúp đỡ, hỗ trợ phát triển;

* Có đồng bào DTTS sinh sống ở địa bàn xung yếu về an ninh, quốc phòng; địa bàn xen canh, xen cư; biên giới có đông đồng bào DTTS nước ta và nước láng giềng thường xuyên qua lại.

+ Đối với những huyện có đồng bào DTTS sinh sống nhưng chưa đủ các tiêu chí nêu trên thì tổ chức làm công tác dân tộc thực hiện theo mô hình:

* Thành lập phòng quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có công tác dân tộc và công tác chuyên môn khác có liên quan nhiều đến công tác dân tộc trực thuộc UBND cấp huyện nhưng phải đảm bảo số phòng ở cấp huyện theo quy định của Nghị định số 12/2001/NĐ-CP ngày 27/3/2001 của Chính phủ.

* Bố trí cán bộ chuyên trách công tác dân tộc trong Văn phòng HĐND và UBND hoặc phòng chuyên môn khác hiện có của UBND cấp huyện.

- Đối với xã, phường, thị trấn có đồng bào DTTS sinh sống trên địa bàn không thành lập tổ chức riêng, nhưng phân công một ủy viên UBND cấp xã kiêm nhiệm theo dõi tổ chức thực hiện công tác dân tộc.

UBND cấp tỉnh căn cứ vào nguyên tắc và tiêu chí kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc quy định tại Nghị định 53/2004/NĐ-CP, xây dựng đề án kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc các cấp của địa phương mình trình HĐND cùng cấp xem xét, quyết định. Đối với những tỉnh đã thành lập cơ quan làm công tác dân tộc thì không phải làm thủ tục thành lập lại. Chủ tịch UBND cấp tỉnh quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế của cơ quan làm công tác dân tộc theo hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng, Chủ nhiệm UBDT; gửi báo cáo Thủ tướng Chính phủ, UBDT và Bộ Nội vụ về công tác kiện toàn tổ chức làm công tác dân tộc ở địa phương.

* Ngày 12/10/2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 84/2012/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của UBDT. UBDT thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18/4/2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.

* Ngày 10/02/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2017/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của UBDT. UBDT thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 1/9/2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.

* Ngày 20/9/2022, Chính phủ ban hành Nghị định số 66/2022/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của UBDT. UBDT thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ; Nghị định số 101/2020/NĐ-CP ngày 28/8/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2016/NĐ-CP và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:

1. Trình Chính phủ dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, dự thảo nghị định của Chính phủ theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm của Chính phủ và các nghị quyết, dự án, đề án theo sự phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

2. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, trung hạn, hàng năm và các dự án, công trình quan trọng quốc gia thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Ủy ban Dân tộc.

3. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để trình Quốc hội ban hành các chính sách dân tộc; tiêu chí xác định thành phần dân tộc, danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam; ban hành chính sách đặc thù, các chương trình, dự án, đề án phát triển kinh tế - xã hội ở các xã, thôn, bản có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi, xã biên giới, xã an toàn khu; các chính sách đầu tư, hỗ trợ ổn định cuộc sống cho đồng bào dân tộc thiểu số; các chính sách, dự án hỗ trợ người dân ở các địa bàn đặc biệt khó khăn; các chính sách, dự án bảo tồn và phát triển đối với các nhóm dân tộc thiểu số rất ít người, các dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù.

4. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số; phối hợp với các bộ, ngành liên quan trình cấp có thẩm quyền ban hành chính sách phát triển nguồn nhân lực, thu hút, tăng cường cán bộ, công chức, viên chức công tác tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi; chính sách nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số, chính sách đặc thù đối với cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc; chính sách để đồng bào dân tộc thực hiện quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phong tục tập quán, truyền thống, văn hóa của dân tộc mình; chính sách đầu tư, phát triển các cơ sở giáo dục đào tạo đáp ứng công tác giáo dục, đào tạo cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

5. Trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo quyết định, chỉ thị và các văn bản khác về công tác dân tộc theo phân công.

6. Trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền tiêu chí phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển, danh mục phân định các xã, thôn vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển; tiêu chí xác định các dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù.

7. Ban hành các thông tư, quyết định, chỉ thị thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban Dân tộc; kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật do các bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành có liên quan đến lĩnh vực công tác dân tộc; tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chính sách dân tộc theo quy định về ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các quy định hiện hành liên quan.

8. Chủ trì sơ kết, tổng kết, đánh giá việc tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác dân tộc, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ định kỳ và đột xuất theo quy định; đầu mối thống nhất theo dõi, tổng hợp các chính sách dân tộc, rà soát, đôn đốc việc thực hiện chính sách dân tộc ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và ở các địa phương; kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền ban hành, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách dân tộc cho phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu, nhiệm vụ công tác dân tộc của Đảng, Nhà nước.

9. Phối hợp với các bộ, cơ quan có liên quan trong việc lập kế hoạch, phân bổ nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội và các nguồn lực khác cho các địa phương vùng dân tộc thiểu số và miền núi; đề xuất và tham gia thẩm định các chương trình, dự án, đề án, chính sách liên quan đến vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo quy định của pháp luật.

10. Chỉ đạo, hướng dẫn và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, chương trình, dự án, đề án, chương trình mục tiêu quốc gia, công trình quan trọng quốc gia, quyết định, chỉ thị đã được ban hành hoặc phê duyệt thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban Dân tộc.

11. Chỉ đạo, hướng dẫn xây dựng những điển hình tiên tiến là tập thể, cá nhân tiêu biểu, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số; khen thưởng theo thẩm quyền hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng các tập thể và cá nhân tiêu biểu có thành tích xuất sắc trong lao động, sản xuất, xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự và gương mẫu thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

12. Chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra việc tổ chức Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số cấp tỉnh, cấp huyện; tổ chức các hoạt động giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa đại biểu dân tộc thiểu số, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số và các sự kiện khác liên quan đến công tác dân tộc nhằm tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam.

13. Chỉ đạo, tổ chức tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phát huy những phong tục, tập quán và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban Dân tộc; phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xây dựng và tổ chức thực hiện các đề án, dự án tăng cường công tác truyền thông, đưa thông tin về cơ sở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, truyền phát trực tuyến các kênh phát thanh, truyền hình dân tộc trên mạng Internet; phối hợp thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số.

14. Tổ chức, chỉ đạo nghiên cứu khoa học, những vấn đề chiến lược, cơ bản và cấp bách về dân tộc thiểu số và chính sách dân tộc; nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn công tác dân tộc; ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi; các hoạt động thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số; xây dựng hạ tầng kết nối, chia sẻ thông tin, dữ liệu thuộc lĩnh vực công tác dân tộc trong phạm vi Ủy ban Dân tộc và ngoài Ủy ban Dân tộc.

15. Hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban Dân tộc theo quy định của pháp luật; thu hút nguồn lực hỗ trợ đầu tư phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật; quản lý, chỉ đạo hoặc tham gia thực hiện các chương trình, dự án do nước ngoài, tổ chức quốc tế tài trợ, đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo quy định của pháp luật.

16. Thực hiện nhiệm vụ quản lý đối với các trường chuyên biệt và cơ sở giáo dục khác khi được cấp có thẩm quyền giao theo quy định của pháp luật.

17. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê thuộc phạm vi quản lý nhà nước về công tác dân tộc, hệ thống cơ sở dữ liệu về công tác dân tộc, bộ dữ liệu về các dân tộc thiểu số Việt Nam.

18. Điều tra, khảo sát, nghiên cứu, tổng hợp về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của các dân tộc, thành phần dân tộc, tên gọi, phong tục, tập quán các dân tộc thiểu số và những vấn đề khác về dân tộc.

19. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực công tác dân tộc; giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban Dân tộc theo quy định của pháp luật.

20. Theo dõi, kiểm tra, tổng hợp tình hình vùng dân tộc thiểu số và miền núi, tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác dân tộc ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương, đề xuất, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết các vấn đề liên quan đến công tác dân tộc và đồng bào dân tộc thiểu số.

21. Tiếp đón, thăm hỏi và phối hợp với các bộ, ngành, địa phương giải quyết nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số theo chế độ, chính sách và quy định của pháp luật.

22. Quyết định và tổ chức thực hiện kế hoạch cải cách hành chính, công khai các loại thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực công tác dân tộc; thực hiện các nhiệm vụ khác về cải cách hành chính theo quy định của pháp luật.

23. Quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực công tác dân tộc; thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Ủy ban Dân tộc theo quy định của pháp luật.

24. Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế công chức, số lượng viên chức, vị trí việc làm, cơ cấu ngạch công chức, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp; quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, luân chuyển, biệt phái, từ chức, miễn nhiệm, cách chức, khen thưởng, kỷ luật, thôi việc, nghỉ hưu, chế độ tiền lương và các chính sách đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thuộc Ủy ban Dân tộc theo quy định.

25. Xây dựng dự toán ngân sách hàng năm; phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính lập, tổng hợp dự toán thu, chi ngân sách theo ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý để trình Chính phủ; quản lý, tổ chức thực hiện và quyết toán ngân sách nhà nước; thực hiện các nhiệm vụ khác về quản lý ngân sách nhà nước, tài chính, tài sản theo quy định của pháp luật.

26. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao và theo quy định của pháp luật./.