Thông tin giá cả thị trường số ra ngày 17/7/2015

03:31 PM 17/07/2015 |   Lượt xem: 2062 |   In bài viết | 

TIÊU ĐIỂM

Phòng chống dịch bệnh trên cá tra cần phân cấp cụ thể

Trong những năm gần đây, dịch bệnh trên cá tra có chiều hướng gia tăng mạnh, gây tổn thất nặng nề cho người nuôi cá và ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc xuất khẩu. Do vậy yêu cầu phòng, chống dịch bệnh trên cá tra đang là vấn đề được bà con cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản quan tâm hàng đầu.

Thiệt hại nặng nề từ dịch bệnh

Theo thống kê, hiện dịch bệnh trên cá tra đã xuất hiện tại 67 xã thuộc 4 tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long và Hậu Giang. Phổ biến nhất là bệnh gan thận mủ hay bà con quen gọi là bệnh mủ gan. Bệnh này gây thiệt hại lớn cho người nuôi cá tra thâm canh ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với tỷ lệ cá chết khi bị nhiễm bệnh lên đến 90%. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do các địa phương chưa có kế hoạch phòng, chống dịch bệnh thủy sản nói chung và dịch bệnh trên cá tra nói riêng.

Trước tình trạng này Bộ NN&PTNT đã phê duyệt “Kế hoạch quốc gia phòng, chống dịch bệnh trên cá tra giai đoạn 2015 – 2020”. Mục tiêu của kế hoạch này nhằm từng bước kiểm soát, khống chế không để các bệnh truyền nhiễm lây lan, giảm thiểu thiệt hại cho người nuôi cá tra. Đồng thời đáp ứng yêu cầu của các nước nhập khẩu cá tra, sản phẩm cá tra của Việt Nam. Bởi thời gian qua, các nước nhập khẩu cá tra đã và đang đưa ra nhiều quy định, hàng rào kỹ thuật gây khó khăn cho việc xuất khẩu của Việt Nam. Cụ thể, từ năm 2013 đến nay một số nước đã cử các đoàn công tác sang Việt Nam để kiểm tra, kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm, kiểm soát dịch bệnh và nuôi trồng thủy sản của nước ta. Sau khi kết thúc các đợt thanh kiểm tra, các đoàn công tác đã có báo cáo và yêu cầu Việt Nam cần có “Kế hoạch quốc gia về phòng, chống dịch bệnh trên cá tra”.

Trách nhiệm đã được phân cấp

Theo kế hoạch này, hệ thống cơ quan, tổ chức, cá nhân triển khai giám sát theo nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện những công việc được phân công đảm bảo giám sát khép kín từ cơ sở sản xuất cá tra giống đến cơ sở nuôi cá tra. Hệ thống này đã được phân cấp trách nhiệm rõ ràng từ trung ương tới các địa phương. Theo đó, Tổng cục Thủy sản có nhiệm vụ tổ chức hướng dẫn, kiểm tra việc đánh mã số cơ sở vùng nuôi, triển khai thực hiện hoạt động nuôi, sản xuất giống cá tra theo đúng quy trình đảm bảo phòng bệnh hiệu quả. Hướng dẫn giám sát các chỉ tiêu xét nghiệm về môi trường và xử lý khi có biến động ảnh hưởng đến sức khỏe và dịch bệnh trên cá tra...

Chi cục Thủy sản, Chi cục Nuôi trồng thủy sản có trách nhiệm đánh mã số và cấp mã số cho cơ sở sản xuất cá tra giống, cơ sở nuôi cá tra thương phẩm theo hướng dẫn của Tổng cục Thủy sản. Tổ chức hướng dẫn, kiểm tra việc triển khai thực hiện quy trình nuôi đảm bảo an toàn dịch bệnh.

Cơ quan Thú y vùng phải hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc phòng, chống dịch bệnh trên cá tra trên địa bàn quản lý. Thực hiện kiểm dịch và cấp giấy chứng nhận kiểm dịch xuất khẩu cá tra theo yêu cầu của nước nhập khẩu. Hướng dẫn, kiểm tra việc điều chỉnh, xử lý các vi phạm trong quá trình nuôi cá tra, kinh doanh, sử dụng thuốc thú y trong nuôi cá tra.

Chi cục Thú y địa phương phải lập và cập nhật danh sách mã số các cơ sở nuôi cá tra tại địa phương. Hướng dẫn chủ cơ sở lập sổ theo dõi tình hình dịch bệnh, sử dụng thuốc thú y để phòng và trị bệnh; xác nhận sổ theo dõi của các cơ sở nuôi cá tra. Tổ chức triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh trên cá tra tại địa phương; theo dõi, giám sát và kiểm tra việc thực hiện các quy định phòng, chống dịch bệnh của cơ sở sản xuất cá tra giống, cơ sở nuôi cá tra; kinh doanh, sử dụng thuốc thú y, vaccine trong nuôi cá tra trên địa bàn quản lý.

Các cơ sở sản xuất cá tra giống, cơ sở nuôi cá tra phải thường xuyên theo dõi tình hình dịch bệnh tại cơ sở. Ghi chép sổ tay quản lý dịch bệnh trên cá tra theo quy định. Cơ sở nuôi cá tra chỉ được phép sử dụng các loại thuốc có trong danh mục thuốc được phép sản xuất, kinh doanh do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành để phòng, trị bệnh cho cá tra theo hướng dẫn của cơ sở sản xuất. Đặc biệt nghiêm cấm sử dụng, bổ sung nguyên liệu thuốc thú y, nguyên liệu kháng sinh, hóa chất bị cấm dùng trong nuôi trồng thủy sản. Cơ sở nuôi cá tra phải có sổ theo dõi tình hình dịch bệnh; phòng và trị bệnh cho cá tra.

MUA GÌ

Ưu tiên mua tạm trữ muối

Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo Tổng công ty Lương thực miền Bắc thực hiện nhiệm vụ mua tạm trữ muối niên vụ 2015 của diêm dân, bảo đảm việc mua tạm trữ có tính đến sản lượng muối của từng địa phương và ưu tiên mua tạm trữ tại địa phương có muối tồn đọng lớn. Việc mua tạm trữ muối thực hiện theo cơ chế thị trường và đảm bảo mục tiêu bình ổn giá muối trên thị trường, giúp diêm dân tiêu thụ muối với giá có lợi. Phó Thủ tướng cũng giao Bộ Công Thương thực hiện nhiệm vụ phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu muối năm 2015 theo đúng thời điểm Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị để không ảnh hưởng đến việc tiêu thụ muối sản xuất trong nước theo quy định. Đồng thời tăng cường kiểm tra các doanh nghiệp được phân giao nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan, bảo đảm việc sử dụng muối nhập khẩu đúng mục đích và không trao đổi kinh doanh thương mại; chỉ đạo các doanh nghiệp sản xuất hóa chất ưu tiên sử dụng muối sản xuất trong nước.

Đồng Tháp: Dưa hấu lấy nụ thu lợi cao

Chuyển từ hình thức trồng dưa hấu lấy trái truyền thống, thời gian gần đây, nông dân huyện Hồng Ngự (Đồng Tháp) thực hiện trồng dưa hấu lấy nụ vì chi phí đầu tư thấp, thực hiện khá dễ vì phù hợp với mọi loại đất, đặc biệt là đất bãi bồi sẽ cho năng suất cao. Sau khi tiến hành bẻ nụ dưa được thương lái địa phương thu mua với giá 5.000 - 6.000 đồng/kg, sau khi trừ các khoản chi phí về giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công chăm sóc nông dân thu lợi nhuận từ 50 - 100 triệu đồng/héc-ta tùy theo thời điểm bán nụ dưa và năng suất. Trồng dưa hấu lấy nụ là hướng đi mới giúp nông dân huyện Hồng Ngự thực hiện tốt chuyển đổi cây trồng phù hợp với điều kiện canh tác và nâng cao thu nhập cho nông dân trồng rau màu nói chung.

Đà Lạt: Hoa cúc tăng giá mạnh

Trong vòng hai tuần qua, giá hoa cúc bán tại vườn ở Đà Lạt (Lâm Đồng) đã tăng đột biến, cao nhất trong năm tháng qua. Với một sào cúc lưới trắng có giá bán tại vườn hiện nay là 22.000 - 25.000 đồng/bó 10 bông thì trừ mọi chi phí đầu tư nhà vườn vẫn thu về không dưới 70 triệu đồng. Trong khi đó, giá các loại cúc chùm được cho là “thấp cấp” vốn dễ trồng và đầu tư không nhiều, lâu nay giá lẹt đẹt chỉ khoảng 5.000 - 6.000 đồng/bó nay cũng tăng vọt lên 8.000 - 10.000 đồng/bó. Mỗi sào loại cúc này nhà vườn vẫn có lãi tương đương với các loại cúc cao cấp bọc lưới. Dù đây là thời điểm giá hoa cúc tăng cao đột biến nhưng nhiều gia đình không có hoa để bán, bởi cách đây vài tháng, Đà Lạt bất ngờ xuất hiện nhiều trận mưa lớn, xảy ra lũ quét, ngập úng gây hư hại chừng chục héc-ta hoa cúc. Bên cạnh đó, hầu hết nhà vườn trồng hoa cúc lại nhắm thu hoạch vào tháng 7 âm lịch khi nhu cầu sử dụng hoa cúc để thờ cúng tăng. Vì vậy, thời điểm hiện tại, lứa hoa cúc đang cho thu hoạch là "hàng hiếm". Đó cũng là nguyên nhân khiến giá loại hoa này tăng cao đột biến. Tuy nhiên, giá hoa cúc cao như hiện nay có thể sẽ không giữ được lâu, bởi chì cần một vài tuần nữa, cúc Đà Lạt sẽ bước vào mùa thu hoạch rộ.

Cà Mau: Giá cá bống tượng giảm

Xã Tân Thành, thành phố Cà Mau có gần 1.200 hộ dân nuôi cá bống tượng với diện tích 284 héc-ta, cho sản lượng gần 3 tấn/năm. Trước việc giá cá bống tượng giảm mạnh trong thời gian dài, nhiều hộ nuôi cá đành phải chọn giải pháp “treo ao” hoặc giảm quy mô, sản lượng nuôi để chờ giá cá tăng trở lại. Do vậy, sản lượng cá bống tượng ở xã Tân Thành đã giảm gần một nửa so với một năm trước đây. Ông Lê Thành Nơi, Bí thư Đảng ủy xã Tân Thành, thành phố Cà Mau, cho biết từ giữa năm 2014 trở về trước, cá bống tượng trọng lượng từ 1kg trở lên có giá bán 550.000 đồng nay giảm chỉ còn 400.000 đồng/kg, khiến người nuôi không có lãi. Riêng cá bống tượng có trọng lượng từ 0,5kg đến dưới 1kg giá bán càng giảm mạnh hơn. Trước tình hình khó khăn của người nuôi cá bống tượng, chính quyền xã Tân Thành khuyến cáo người dân vẫn duy trì diện tích nuôi nhưng giảm quy mô, sản lượng để chờ giá cá tăng trở lại. Xã đang xúc tiến thành lập thêm hợp tác xã thu mua cá bống tượng, cá chình nhằm chủ động về đầu ra và giá cả thị trường, ngăn chặn việc thương lái ép giá thu mua cá của nông dân.

BÁN GÌ

Bộ Công Thương đề xuất giảm chi phí cho quả vải xuất sang Malaysia

Bộ Công Thương vừa đề xuất với các bộ, ngành miễn giảm chi phí xuất khẩu quả vải sang Malaysia cho Công ty CP Tiến bộ Quốc tế (AIC). Cụ thể, Bộ Công Thương đề nghị miễn giảm chi phí kiểm dịch thực vật, chi phí lưu kho lạnh tại sân bay; chi phí liên quan đến kiểm hóa và thủ tục hải quan. Những miễn giảm này sẽ tạo đà mở rộng thị trường xuất khẩu vải sang Malaysia trong những mùa vải sau. Bởi trên thực tế, nếu không có sự hỗ trợ bước đầu, mặt hàng quả vải tươi của Việt Nam khó có thể được thị trường Malaysia tiếp nhận do các chi phí liên quan bao gồm chi phí kiểm hóa, phí kiểm dịch thực vật, phí thủ tục hải quan sẽ đẩy giá thành quả vải tăng cao.

Bắc Giang: Giá đinh lăng cao

Cây đinh lăng thường được trồng làm cảnh, lấy lá ăn sống hoặc dùng trong Đông y, giá trị kinh tế không cao. Tuy nhiên, thời gian gần đây, nhiều thương lái đi mua gom cây đinh lăng với giá cao khiến loại cây này trở nên khan hiếm. Tại xã Phương Sơn (Lục Nam - Bắc Giang), thương lái vào từng nhà hộ dân thu mua đinh lăng với mức giá 55.000 đồng/kg thân, cành; 150.000 - 200.000 đồng/kg rễ, tùy độ to nhỏ. Trong khi đó, thời gian trước, đinh lăng dễ mua và giá rẻ hơn bây giờ nhiều, chỉ 3.000 - 7.000 đồng/kg. Trước tình hình này, nhiều người dân trong xã đã đưa đinh lăng vào sản xuất. Thậm chí một số hộ đã nhạy bén làm nghề ươm giống cây này để phục vụ nhu cầu mở rộng sản xuất của người dân. Trung bình một hộ gia đình chuyên làm nghề ươm cây đinh lăng giống cung cấp cho thị trường từ 1 - 2 vạn cây đinh lăng mỗi năm với giá 3.000 đồng/cây. Đây là mức thu nhập khá so với các nghề khác.

Kiên Giang: Tạm ngưng thu mua, xuất khẩu cá nóc

Sở NN&PTNT Kiên Giang đã chỉ đạo Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản ra thông báo đến các cơ sở và ngư dân về việc tạm ngưng thu mua, chế biến cá nóc xuất khẩu. Lý do tạm ngưng là do khi thực hiện đề án thí điểm thu mua, chế biến cá nóc xuất khẩu, các đơn vị tham gia gặp nhiều khó khăn, không hiệu quả; một số cơ sở được chỉ định tham gia thí điểm không mặn mà triển khai. Hơn nữa, cá nóc có nhiều chủng loại nhưng chỉ có 3 loại được chọn để xuất khẩu sang Hàn Quốc là: Cá nóc răng mỏ chim, cá nóc xanh, cá nóc bạc và kích cỡ theo yêu cầu phải đạt từ 200 gam/con trở lên. Phương thức bảo quản sau khi đánh bắt chưa đảm bảo nên ảnh hưởng đến chất lượng khi chế biến, xuất khẩu.

Kiên Giang là một trong 4 tỉnh được Bộ NN&PTNT chọn tham gia đề án thí điểm thu mua, chế biến cá nóc xuất khẩu giai đoạn 2013 - 2015. Theo đề án này, mỗi năm các cơ sở tại Kiên Giang sẽ thu mua, chế biến khoảng 1.200 - 1.500 tấn cá nóc và xuất khẩu 500 tấn cá thành phẩm, góp phần tăng thu nhập cho ngư dân.

Quả cóc được mùa

Các nhà vườn ở Cần Thơ và Hậu Giang hiện đang bước vào mùa thu hoạch cóc với mức giá chấp nhận được. Cây cóc được bà con trồng xen canh với nhiều loại trái khác nhằm tận dụng nguồn đất trống đồng thời tạo thu nhập xen kẽ. Mặc dù không phải là loại cây chủ lực nhưng cây cóc, góp phần cải thiện thu nhập cho bà con nơi đây. Với hơn 50 gốc cóc, một hộ gia đình thu hoạch mỗi đợt khoảng 300 kg trái, thương lái đến tận chỗ thu mua, với mức giá từ 6.500 - 7.000 đồng/kg như hiện nay, trừ hết chi phí lãi 16 - 17 triệu đồng. Đặc biệt, trồng cóc không tốn chi phí nhiều lại dễ tiêu thụ, ít khi nào bị dội chợ hay o ép giá. Cóc cao nhất khoảng 10.000 đồng/kg, thấp nhất cũng 3.000 đồng/kg. Do không phải cây trồng chủ lực nên các hộ gia đình không phải lo lắng hay đầu tư quá nhiều công chăm sóc.

LƯU Ý CẢNH BÁO

Tây Nguyên: Nhiều diện tích hoa màu bị chết vì thiếu nước

Khác với những năm trước, mùa mưa năm nay đến muộn, mưa lại không đều nên nhiều diện tích hoa màu của bà con nông dân ở Tây Nguyên bị chết do thiếu nước, khiến bà con nông dân bị thiệt hại không nhỏ về kinh tế.

Bà con nông dân thiệt hại về kinh tế

Ở Tây Nguyên thường thì vào cuối tháng 4 dương lịch là bắt đầu có mưa rải rác ở một số vùng và đến giữa tháng 5 là có mưa đều. Theo lẽ thông thường đó, bà con nông dân ở Tây Nguyên bắt đầu vụ reo trồng hoa màu cho kịp thời vụ. Tuy nhiên, khác với những năm trước, năm nay mùa mưa đến muộn hơn, lượng mưa ít khiến nhiều diện tích hoa màu của bà con nông dân bị chết.

Mặc dù hiện nay chưa có số liệu thống kê chính xác về diện tích hoa mầu của nông dân bị thiệt hại nhưng theo phản ánh của nhiều hộ nông dân thì diện tích thiệt hại này không nhỏ. Nhiều hộ nông dân điêu đứng vì vụ hoa màu năm nay. Anh Lê Văn Thế, xã Ea Wen, huyện Buôn Đôn, Đắk Lắk chia sẻ: “Cứ tưởng như mọi năm cuối tháng 4 có mưa và đến giữa tháng 5 là có mưa đều nên gia đình tôi đem toàn bộ số giống đậu đi tỉa cho kịp thời vụ, ai ngờ đầu mùa chỉ mưa được 1 - 2 cơn sau đó chờ mãi không có mưa… khiến hơn 1 héc-ta đậu giống của gia đình tôi bị khô, không kịp nẩy mầm”. Theo anh Thế thiệt hại do mưa không đều khiến gia đình anh thiệt hại gần 10 triệu đồng bao gồm tiền mua giống đậu (20 kg giống) và tiền thuê máy cày xới đất, công reo trồng…

Cũng giống như anh Thế, bà Lê Thị Hoãn, xã Hòa Đông, huyện Krông Păc thấy hiện tượng có mưa cũng đem 20 kg giống ngô reo trồng để đón mưa. Tuy nhiên kết quả cây ngô lên được 2 - 3 lá thì chết do trời ngưng mưa, không đủ nước tưới. Theo tính toán tổng cộng cả tiền giống, chi phí về cầy đất, công cán, gia đình bà Hoãn cũng thiệt hại trên dưới 10 triệu đồng. Hiện gia đình bà đang vay mượn tiền để mua giống để reo trồng lại diện tích trên cho kịp thời vụ.

Không chỉ nông dân ở Đắk Lắk bị thiệt hại do mưa không đều và ngắt quãng mà nông dân ở các tỉnh Đắk Nông, Lâm Đồng, Gia Lai cũng rơi vào tình cảnh này. Anh Lê Văn Sáu ở huyện Cư Jut, Đắk Nông cho biết: “Ở chỗ chúng tôi hầu hết hộ nào cũng đều bị rơi vào tình cảnh này, bởi việc trồng tỉa hoa màu ở đây đã trở thành thói quen rồi. Nếu không trồng tỉa sớm thì sẽ không kịp thời vụ, là người nông dân chân lấm quanh năm vất vả, hiện chúng tôi đang mua giống để chuẩn bị trồng tỉa lại diện tích khô hạn cho kịp niên vụ”.

Bà con cần chú ý đến thông tin thời tiết

Theo một số chuyên gia nông nghiệp, hạt của cây hoa màu sẽ nảy mầm khỏe nếu đảm bảo được 2 yếu tố nhiệt và ẩm. Để đảm bảo đầy đủ nhiệt cho hạt nảy mầm, nhiều người dân Nam bộ có tập quán gieo đón mưa. Nếu gặp năm mưa thuận thì năng suất rất cao, nhưng đa số các cơn mưa đầu vụ rất thất thường, vì vậy, phải gieo đi gieo lại 2 - 3 lần rất tốn kém.

Thiết nghĩ, để giảm sự bấp bênh, bà con nông dân ở các tỉnh Tây Nguyên cần chú ý phần dự báo thời tiết trên các phương tiện truyền thông, khi có dự báo mùa mưa bắt đầu vào giữa tháng 5 là thời vụ giao hạt đảm bảo nhất. Tuy nhiên, để góp phần bù đắp những thiệt hại do thời tiết gây ra, bà con nông dân nơi đây vẫn cần sự quan tâm hỗ trợ thêm về giống để họ tái gieo trồng lại diện tích hoa màu bị mất này.

NHẬN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG

Lâm Đồng: Tăng cường thông tin thị trường phục vụ sản xuất

Trong nửa đầu năm 2015, một số mặt hàng nông sản của Lâm Đồng vẫn còn tái diễn tình trạng được mùa, mất giá, thậm chí mất cả mùa và mất cả giá.

Nguyên nhân thường được đề cập nhiều là do thiếu mô hình liên kết với quy mô lớn… Tuy nhiên, theo Trung tâm Khuyến nông tỉnh Lâm Đồng, có một nguyên nhân quan trọng chưa được quan tâm là sự coi nhẹ tiếp cận thông tin thị trường ở thời điểm trước, trong và sau vụ mùa sản xuất, thu hoạch.

Nhiều mô hình liên kết chuỗi giá trị sản phẩm ở Lâm Đồng đạt những thành công bước đầu nhờ có “tai mắt” tại các thị trường trọng điểm trong và ngoài nước để cập nhật thông tin về chủng loại, khối lượng các mặt hàng đang và sẽ sản xuất, thời điểm thu hoạch, chiều hướng giá cả lên xuống… Ngược lại, người sản xuất do thiếu cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu thông tin thị trường, nên đã chuyển đổi cơ cấu các loại cây trồng theo “tâm lý đám đông”, dẫn đến hệ quả ứ đọng hàng hóa, thua lỗ kéo dài. Những mặt hàng cao su, cà chua, hành tây, hành tím và nhiều loại rau xanh khác ở Lâm Đồng đã lâm cảnh ế thừa trong vài thời vụ gần đây là những minh chứng.

Để đáp ứng yêu cầu tiếp cận thông tin thị trường sản xuất nông sản hàng hóa Trung tâm Khuyến nông Lâm Đồng nêu ra 4 giải pháp trọng tâm. Thứ nhất, thường xuyên điều tra diện tích đất sản xuất cây trồng cùng loại trong tỉnh, trong vùng để dự báo tình hình biến động cung - cầu. Thứ hai, xây dựng hệ thống thu thập thông tin giá nông sản bán sỉ, bán lẻ phủ kín ở các khu vực chợ đầu mối, đại lý thu mua, cơ sở chế biến, trang trại… Thứ ba, cập nhật, phổ biến thông tin giá cả nông sản gắn với hoạt động khuyến nông trên nhiều kênh thông tin đại chúng ở địa phương. Thứ tư, bố trí nguồn nhân lực cùng những trang thiết bị hiện đại để không ngừng nâng cao hiệu quả thu thập, phân tích và xử lý thông tin thị trường nông sản.

Thới Bình (Cà Mau): Vụ gừng năm 2015 thất bại

Vụ mùa trước, nhiều hộ ở xã Biển Bạch Đông thu lợi lớn nhờ trồng gừng nên đã phá diện tích mía để trồng gừng. Tuy nhiên, hiện nhiều hộ đang rất lo lắng vì vụ năm nay nhiều diện tích gừng chỉ lên 40 - 50%, thậm chí có hộ bị thối hết gừng giống.

Chính vì lý do này mà bà con băn khoăn là có phải giống gừng họ đang trồng chính là gừng các hộ khác đã bán ra từ vụ trước hay không. Sự băn khoăn ấy hoàn toàn có cơ sở bởi trước đây 1 công gừng khoảng 7 - 8 tấn bán với giá từ 100 - 150 triệu đồng thì 1 kg trị giá 15.000 - 20.000 đồng. Nhưng 1 kg gừng giống người dân phải mua của thương lái từ 25.000 - 30.000 đồng. Như vậy, rất có thể người dân tự mua gừng của nhau mà cứ ngỡ gừng giống. Chỉ các thương lái là hưởng lợi.

Hiện tại, toàn bộ diện tích gừng của huyện Thới Bình trên 60 héc-ta, đây đa phần là diện tích được chuyển từ cây mía thuộc 2 xã Biển Bạch Đông và Trí Lực. Điều đáng lo ngại là hiện nay đầu ra sản phẩm này đang vô cùng bấp bênh trong khi diện tích gừng lại đang phát triển nhanh. Nhưng đất đã trồng gừng thì chỉ trồng được 1 vụ, mùa sau phải chuyển sang loại cây khác trong khi đầu ra còn hết sức bấp bênh. Như vậy, hiện nay hơn 60 héc-ta, liệu vụ mùa sau sẽ là bao nhiêu và diện tích cây mía sẽ tiếp tục bị thu hẹp do cây gừng lấn chiếm nếu gừng tiếp tục được giá. Năm 2012 có thời điểm gừng sốt giá, nhưng đến lúc thu hoạch rộ, giá chưa được 5.000 đồng/kg khiến nhiều người lâm cảnh khốn đốn. Hiện toàn tỉnh Cà Mau đang triển khai đầu tư đồng bộ nhiều hạng mục công trình nhằm hướng tới mục tiêu sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá, từng bước nâng cao năng suất, chất lượng theo từng vùng đã quy hoạch. Vì vậy, việc người dân tự phát trong sản xuất sẽ rất khó trong việc đầu tư cũng như chỉ đạo sản xuất. Do vậy, bà con cần lưu ý chỉ sản xuất theo quy hoạch ban đầu có thể khó nhưng sẽ mang lại lợi ích lâu dài, giảm bớt được thiệt hại do biến động của thiên tai, thời tiết và thị trường.

CHUYỂN ĐỘNG THỊ TRƯỜNG

Đồng bằng sông Cửu Long: Nấm mối khan hàng, giá cao

Nấm mối là loại nấm mọc tự nhiên, một năm chỉ xuất hiện một lần trong năm vào đầu mùa mưa ở ĐBSCL, kéo dài khoảng 1 - 2 tháng là tàn. Chúng chỉ mọc ra từ các gò mối cao ở trong những vườn cây ăn trái lâu năm. Do nấm càng ngày càng khan hiếm nên giá rất cao, người dân cũng không có bán.

Các tỉnh có xuất hiện nấm mối nhiều như Hậu Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Cần Thơ và Tiền Giang…, nhưng năm nay lại rất khan hiếm, giá bán tại nhà vườn từ 400.000 – 450.000 đồng/kg, còn bán vào siêu thị hoặc đưa lên TP. Hồ Chí Minh giá từ 600.000 – 700.000 đồng/kg, tăng gấp đôi so với năm ngoái. Thường 1kg nấm tươi mua về sơ chế (gọt gốc, rửa sạch), chỉ còn 600 gam. Tính ra mỗi ki-lô-gam nấm giá đã lên tới gần triệu đồng. Còn nấm mối được phơi khô giữ lâu hơn, giá bán từ 1,5 - 1,7 triệu đồng/kg. Nhưng số lượng loại nấm “quý” này thường không đủ hàng đáp ứng nhu cầu thị trường. Theo nhiều nhà vườn ở ĐBSCL, hàng năm cứ vào mùa mưa từ tháng 4 - 7 âm lịch nấm xuất hiện nhiều trong các khu vườn cây ăn trái, năm nay do thời tiết không thuận lợi nắng nhiều mưa ít nên nấm mọc giảm hơn phân nửa so với các năm trước. Nhiều nhà vườn sử dụng phân thuốc hóa học ở các khu vườn cây ăn trái cũng làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nấm mối. Chị Đặng Thị Trang, ở thị trấn Mái Dầm, huyện Châu Thành (Hậu Giang) cho biết, lượng nấm năm nay giảm khoảng 1/3 so với cùng thời điểm năm ngoái. Một phần cũng do sử dụng phân thuốc hóa học nhiều nên ảnh hưởng đến sự phát triển của nấm. Nấm mối có hai loại ở miền Đông và miền Tây. Tuy nhiên nấm mối miền Tây lúc nào giá cũng cao gấp đôi so với nấm mối miền Đông, bởi hương vị đặc sắc hơn.

Người nuôi cá tra đang bị lỗ

Cá tra là một trong những mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực của ngành chăn nuôi. Tuy nhiên thời gian gần đây, bà con nuôi cá tra nguyên liệu chế biến xuất khẩu và ương cá tra giống tiếp tục lâm vào cảnh khó khăn do giá bán thấp hơn giá thành sản xuất.

Tại ấp 1, xã Mỹ Thành Bắc, huyện Cai Lậy (Tiền Giang), những ngày gần đây thương lái mua cá tra giống tại ao ương của nông dân giá 19.000 đồng/kg với cá loại 50 con/kg. Cá tra giống loại 30 con/kg cũng chỉ được mua 17.000 đồng/kg. Theo các thương lái thu gom cá tra giống ở xã Mỹ Thành Bắc, huyện Cai Lậy cung cấp cho người nuôi cá tra thương phẩm ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, giá cá tra giống loại 30 con/kg bán cho chủ ao nuôi cá, giao tại ao của người nuôi, bao cá chết trong vòng 7 ngày (cá chết trong 7 ngày sẽ được người bán bù lại số lượng cá tương đương), giá 27.000 đồng/kg; tính ra giá cá tra giống đã giảm gần 10.000 đồng/kg so với hơn 1 tháng trước. Sở dĩ giá cá tra giống giảm mạnh trong thời gian qua là do thị trường xuất khẩu cá tra những tháng đầu năm gặp khó khăn dẫn đến giá cá tra thương phẩm giảm chỉ còn 19.500 - 19.700 đồng/kg, làm cho người nuôi cá tra thương phẩm ngại thả giống, kéo theo giá cá tra giống giảm mạnh. Đối với người nuôi cá tra thương phẩm, giá cá tra giống thấp lại là cơ hội để giảm chi phí cho đợt thả cá giống cho vụ nuôi mới.

Những ngày gần đây, giá cá tra nguyên liệu chế biến xuất khẩu đã giảm đến mức dưới 20.000 đồng/kg, trong khi đó giá thành nuôi cá tra của nông dân đa phần 21.000 - 23.000 đồng/kg. Nông dân nào có cá tra đạt kích cỡ thương phẩm phải thu hoạch thời điểm này coi như lỗ nặng. Giá cá tra giảm do nhu cầu cá tra nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu không nhiều, cộng với thị trường tiêu thụ cá tra gần đây gặp khó khăn. Trước tình hình trên, bà con nuôi cá tra thương phẩm và ương cá tra thịt mong muốn giá cá ổn định ở mức có lợi nhuận hợp lý, để có thể yên tâm sản xuất.

CHỐNG BUÔN LẬU MUA BÁN GIAN LẬN

Đường nhập lậu nhiều do chênh lệch giá cao

Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Tây Ninh cho biết, trong thời gian qua, hàng nhập lậu qua đường biên giới Tây Ninh chủ yếu là đường cát và thuốc lá vì chênh lệch giá cao.

Đặc biệt, hoạt động luôn lậu đường cát Thái Lan qua biên giới Campuchia dọc tuyến biên giới Tây Ninh - Campuchia liên tục có những diễn biến phức tạp. Trong 6 tháng đầu năm 2015, Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Tây Ninh đã bắt 101 vụ nhập hàng trăm tấn đường. Trong đó, chỉ tính riêng tháng 6/2015, công an Tây Ninh phối hợp lực lượng chức năng đã bắt giữ 2 vụ nhập lậu đường cát với tổng trọng lượng hơn 60 tấn. Hầu hết các đối tượng và băng nhóm vận chuyển hàng hóa nhập lậu tuyến từ huyện Bến Cầu (giáp ranh biên giới Campuchia) về huyện Gò Dầu (thông qua quốc lộ 22). Các đối tượng thường vận chuyển hàng vào ban đêm hoặc canh lúc lực lượng chống buôn lậu nghỉ ngơi. Sau đó sử dụng xe gắn máy xoáy nòng chạy tốc độ cao để đối phó với các lực lượng chống buôn lậu. Thậm chí, các đối tượng buôn lậu còn dùng xe gắn máy có thiết kế phụ hoặc giả dạng hành khách giấu hàng lậu trong hành lý hoặc ngụy trang, cất giấu trong hàng hóa hợp pháp để vận chuyển hàng lậu vào nội địa.

Theo tính toán cụ thể, nếu nhập lậu đường cát từ biên giới vào nội địa thì các đối tượng buôn lậu sẽ thu lợi khoảng 50.000 – 60.000 đồng/bao (50kg). Do lợi nhuận khá cao nên tình trạng buôn lậu đường ngày càng nhiều. Do vậy, bà con các tỉnh dọc biên giới cần nêu cao tinh thần cảnh giá, tránh bị các đối tượng xấu lợi dụng để vận chuyển hàng bất hợp pháp.

Mỳ Chũ nhái tràn lan trên thị trường

Mỳ Chũ đã trở thành thương hiệu nổi tiếng của Bắc Giang, chính vì bán chạy nên nhãn hiệu này đang bị nhiều cơ sở làm giả, làm nhái để trục lợi.

Tại Bắc Giang, mỳ được sản xuất ở nhiều xã của huyện Lục Ngạn. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả là mỳ được sản xuất tại thôn Thủ Dương, xã Nam Dương, người dân vẫn thường quen gọi là mỳ Chũ. Tuy nhiên, hiện nay một số cơ sở sản xuất đã sử dụng trái phép nhãn hiệu hàng hóa Mỳ Gạo Chũ. Những sản phẩm giả, nhái lại thương hiệu mỳ Chũ xuất hiện ngày càng nhiều trên thị trường đã khiến danh tiếng mỳ Chũ bị ảnh hưởng không nhỏ, thậm chí có thể mất thương hiệu.

Tại Hợp tác xã Sản xuất và tiêu thụ Mỳ gạo truyền thống Thủ Dương hiện có trên 100 hộ với khoảng 450 nhân khẩu tham gia sản xuất, sản lượng đạt 500 tấn/năm. Để đảm bảo chất lượng và uy tín thương hiệu Thủ Dương, các hộ tham gia sản xuất đều cam kết không sử dụng hàn the, thuốc tẩy, chất phụ gia mà sản xuất theo phương thức cổ truyền và đảm bảo yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm. Do luôn quan tâm đến chất lượng nên mỳ Thủ Dương được tiêu thụ hầu khắp các tỉnh thành từ Bắc vào Nam. Hội Sản xuất và tiêu thụ mỳ Chũ đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa sản phẩm mỳ Chũ. Thế nhưng, hiện nay một số cơ sở sản xuất, địa phương trên địa bàn tỉnh lại sử dụng trái phép nhãn hiệu hàng hóa của Hội. Vì vậy, Hội Sản xuất và tiêu thụ mỳ Chũ đề nghị các cơ quan chức năng tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, phát hiện và xử lý nghiêm trường hợp vi phạm, đẩy lùi nạn sản xuất mỳ giả làm ảnh hưởng tới giá trị và thương hiệu mỳ Chũ nói chung và mỳ Chũ Thủ Dương nói riêng. Đây cũng là mong muốn chung của người dân Thủ Dương để nghề sản xuất mỳ gạo nơi đây ngày càng phát triển.

BÀ CON CẦN BIẾT

Quy chuẩn quốc gia về điều kiện nuôi thủy sản

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư 16/2015/TT-BNNPTNT quy định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về điều kiện nuôi thủy sản, có hiệu lực thi hành từ 10/10/2015.

Điều kiện đặt lồng/bè

Vị trí đặt lồng/bè phải nằm trong vùng quy hoạch để phát triển nuôi trồng thủy sản; không bị ảnh hưởng bởi lũ, phương tiện giao thông thủy, mực nước không bị thay đổi đột ngột, không có dòng xoáy và không bị ảnh hưởng của các nguồn gây ô nhiễm; chọn nơi có dòng nước chảy thẳng. Nếu nuôi hồ chứa phải lựa chọn nơi có dòng chảy, không nuôi cá lồng/bè trong eo, ngách. Đáy lồng/bè phải cách đáy sông/hồ ít nhất 0,5 mét vào lúc mức nước thấp nhất. Trường hợp đặt lồng/bè thành từng cụm: các cụm lồng/bè khi đặt song song phải cách nhau tối thiểu 10 mét; khi đặt so le, nối tiếp cách nhau tối thiểu 200 mét. Mật độ lồng/bè ở khu vực nước chảy chiếm tối đa 0,2% diện tích mặt nước lúc mức nước thấp nhất; khu vực nước tĩnh chiếm tối đa 0,05% diện tích mặt nước lúc mức nước thấp nhất.
Vật liệu làm lồng/bè và thiết bị, dụng cụ trong quá trình nuôi

Lồng/bè được làm bằng vật liệu chắc chắn, bền, có khả năng chống chịu với môi trường nước, sóng, gió và chất khử trùng tiêu độc. Dụng cụ, thiết bị sử dụng trong quá trình nuôi phải đảm bảo không gây tổn hại cho đối tượng nuôi, dễ làm vệ sinh tiêu độc, khử trùng. Động cơ và thiết bị máy móc sử dụng phải đảm bảo không rò rỉ xăng, dầu vào nguồn nước.

Công trình phụ trợ

Kho chứa thức ăn, nguyên liệu làm thức ăn phải có mái che, thông thoáng, không ẩm ướt, ngăn được côn trùng và động vật gây hại. Khu chứa xăng, dầu được bố trí riêng biệt với kho chứa thức ăn, nguyên liệu làm thức ăn. Khu vực chứa dụng cụ, thiết bị phải gọn gàng không ảnh hưởng đến hoạt động nuôi. Khu chế biến thức ăn cho cá phải ở vị trí riêng biệt.

Phòng trị bệnh, sử dụng thuốc, hóa chất

Trong quá trình nuôi phải thường xuyên vệ sinh lưới để lưới luôn được thông thoáng, sạch sẽ; hàng ngày theo dõi môi trường nước và hoạt động của cá. Nếu thấy môi trường nước xấu, cá kém ăn hoặc xuất hiện bệnh phải có biện pháp xử lý kịp thời; không di chuyển cá từ lồng/bè này sang lồng/bè khác khi đang có bệnh xảy ra. Đặc biệt, chỉ sử dụng thuốc, hóa chất, chế phẩm sinh học và chất xử lý cải tạo môi trường dùng cho nuôi trồng thuỷ sản và được phép lưu hành tại Việt Nam, còn hạn sử dụng. Khi sử dụng thuốc kháng sinh phải xác định rõ tác nhân gây bệnh, sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất hoặc cán bộ chuyên môn. Cơ sở nuôi phải ghi chép việc sử dụng thuốc, hóa chất, chế phẩm sinh học và chất xử lý cải tạo môi trường (ghi rõ ngày, loại, liều lượng, cách sử dụng).

Thu hoạch cá

Phải tuân thủ quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc theo hướng dẫn của nhà sản xuất về thời gian ngừng sử dụng thuốc, hóa chất trước khi thu hoạch cá. Cơ sở phải chấp hành thông báo dừng thu hoạch của cơ quan kiểm tra chất lượng an toàn thực phẩm trong trường hợp các chỉ tiêu vi sinh, hóa học trong sản phẩm nuôi vượt quá giới hạn cho phép.

Bảo hộ lao động và xử lý rác thải

Người làm việc tại cơ sở phải được trang bị đầy đủ bảo hộ lao động theo quy định, có hiểu biết về chuyên môn, kỹ thuật trong lĩnh vực hoạt động. Cơ sở phải trang bị đầy đủ các thiết bị cứu sinh (phao tròn, phao áo).

Rác thải phải được thu gom, xử lý đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng xấu đến nguồn nước. Không xả rác, thức ăn ôi thiu xuống khu vực lồng/bè và môi trường xung quanh.

Ghi chép và lưu giữ hồ sơ

Cơ sở phải theo dõi, ghi chép các thông tin liên quan trong quá trình nuôi. Lập và lưu giữ hồ sơ liên quan bao gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng mặt nước/quyết định giao mặt nước/hợp đồng cho thuê mặt nước/giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; hồ sơ mua giống và kiểm dịch khi mua giống bao gồm xuất xứ, số lượng và chất lượng giống; hồ sơ theo dõi quá trình nuôi; phiếu mua thuốc, hóa chất; tình trạng sức khoẻ và các biện pháp kiểm soát bệnh; các biên bản kiểm tra của cơ quan quản lý (nếu có); các thông tin của sản phẩm khi bán. Hồ sơ phải được lưu giữ tối thiểu là 2 năm.

HÀNG VIỆT

Khóm Queen Cầu Đúc: Nâng cao giá trị, sức cạnh tranh nhờ đạt tiêu chuẩn VietGAP

Với việc áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, vùng chuyên canh cây khóm (dứa) Queen Cầu Đúc ở Hậu Giang đã cho năng suất cao bất ngờ, mang lại niềm cho những người nông dân đã nhiều năm gắn bó với nghề trồng khóm.
Ngọt thơm trái khóm trên vùng đất phèn

Đến với vùng đất nhiễm phèn, nhiễm mặn thuộc xã Hòa Tiến và Tân Tiến (Thành phố Vị Thanh, Hậu Giang), nếu không được tận mắt đến với những luống khóm trải dài thẳng tắp, thì thế nào du khách cũng được nghe kể về trái khóm Cầu Đúc. Bởi lẽ, cùng với hai đặc sản là cây tràm và mía, cây khóm đang mang lại giá trị kinh tế khá lớn cho người nông dân nơi đây.

Nếu như, với người dân địa phương, trái khóm Cầu Đúc là nguyên liệu thân thuộc để chế biến thành nhiều món ăn đậm đà hương vị đồng quê như: Canh chua khóm nấu với cá rô đồng, thịt ba rọi xào khóm chua ngọt, khóm kho với cá trê, cá he… Thì khi ra với thị trường trong và ngoài nước, trái khóm được chế biến thành nhiều mặt hàng có giá trị kinh tế như: Nước khóm ép, khóm sấy khô không tẩm đường, kẹo, mứt, rượu, nước giải khát có ga.

Thậm chí, với sự năng động của những người trồng khóm, lá khóm giờ cũng đã được dùng để chế biến thành sợi, bột giấy, bã khóm làm nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc. Có thể nói, mọi bộ phận của cây khóm đều được khai thác để thu về những giá trị kinh tế nhất định…

Hiện tại, khóm được trồng ở rất nhiều tỉnh trên cả nước, nhưng sở dĩ khóm Queen Cầu Đúc được xem như là loại cây đặc sản của Hậu Giang vì trái có hình dáng đẹp, cuống ngắn, trái to, lõi nhỏ, vỏ vàng đẹp và có vị ngọt thanh. Trái khóm có thể để 10 ngày mà không lo bị hư hỏng.

Những năm 80 của thế kỷ trước, nhờ xuất khẩu được sang thị trường Liên Xô, trái khóm đã giúp nhiều hộ nông dân thoát nghèo và làm giàu. Ngày nay, khóm vẫn là loại cây trồng được người dân Thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ, Hậu Giang chọn làm loại cây trồng chủ lực.

Nâng cao giá trị cho trái khóm

Do cây khóm dễ trồng lại cho thu nhập hơn hẳn nhiều loại cây trồng khác nên đã có thời điểm diện tích trồng khóm của Hậu Giang tăng lên gần 7.000 héc-ta. Năm 2006, Khóm Cầu Đúc (ấp Thạnh Thắng, xã Hòa Tiến) đã được Cục Sở hữu trí tuệ công nhận nhãn hiệu hàng hóa “Khóm Cầu Đúc Hậu Giang” . Tuy nhiên, do tiêu thụ chủ yếu thông qua hệ thống thương lái, chưa có doanh nghiệp đứng ra thu mua ổn định nên khóm Hậu Giang mất dần thế cạnh tranh trên thương trường. Bên cạnh đó, do giống không được tuyển chọn nên năng suất, chất lượng trái khóm giảm đáng kể, gây thiệt hại lớn cho người trồng khóm…

Trước thực tế này, Trung tâm Thông tin và ứng dụng khoa học công nghệ tỉnh Hậu Giang đã lần lượt triển khai thực hiện đề án “Xây dựng mô hình ứng dụng khoa học kỹ thuật phát triển vùng chuyên canh cây khóm Queen sạch bệnh” và “Xây dựng mô hình áp dụng tiêu chuẩn VietGAP để phát triển vùng chuyên canh cây khóm Queen “Cầu Đúc”. Bằng việc đào tạo kỹ thuật viên, tổ chức tập huấn chuyển giao các quy trình tiến bộ khoa học cho gần 2.000 nông dân (tuyển chọn - sản xuất giống sạch bệnh, phòng trừ sâu bệnh, chăm sóc và quản lý dinh dưỡng theo tiêu chuẩn VietGAP, giảm thất thoát sau thu hoạch)… đến nay, Hậu Giang đã có 50 héc-ta sản xuất khóm đạt tiêu chuẩn VietGAP.

Từ chỗ nhiều diện tích khóm chỉ đạt chưa đến 20 tấn/héc-ta, sau khi ứng dụng khoa học kỹ thuật, năng suất trồng khóm đã tăng lên xấp xỉ 30 tấn/héc-ta; có diện tích còn đạt năng suất 36 tấn/héc-ta. Với chu kỳ trồng khóm 26 tháng, thu hoạch được 2 vụ, người trồng khóm thu trung bình khoảng 50 tấn/héc-ta. Với giá bán khoảng 4.000 đồng/kg trái và bán cây giống từ chồi nách, nhiều nông dân đã có nguồn thu vài trăm triệu đồng/năm từ trái khóm.

Nhờ năng suất cao và chất lượng ổn định, người trồng khóm theo tiêu chuẩn VietGAP đã góp phần gia tăng giá trị cho vùng chuyên canh khóm Queen Cầu Đúc, từng bước xây dựng thương hiệu cho ngành trồng trọt của địa phương, nâng cao thu nhập cho người trồng khóm.

Tháng 8 này, người dân Hậu Giang lại bắt đầu vụ thu hoạch khóm trái vụ, mong rằng lại có thêm một mùa khóm thơm ngọt được mùa trên vùng đất phèn, đất mặn Hậu Giang…

Ban biên tập (Thông tin do Báo Công Thương và Cổng Thông tin Điện tử UBDT phối hợp thực hiện)