Thông tin giá cả thị trường tuần từ 20/10/2014 đến 24/10/2014

04:07 PM 20/10/2014 |   Lượt xem: 2716 |   In bài viết | 

TIÊU ĐIỂM

Nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm

Theo Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, ĐBSCL không chỉ là vùng trọng điểm sản xuất lương thực, với sản lượng hàng năm chiếm 50% sản lượng lúa cả nước, mà gần đây khu vực này còn đẩy mạnh khai thác nuôi trồng và chế biến thủy sản, với sản lượng tương đương cây lúa và sản lượng trái cây chiếm tới 70% sản lượng trái cây của cả nước. Chỉ tính riêng năm nay các tỉnh ĐBSCL đã đưa diện tích nuôi thủy sản lên gần 800.000 héc-ta và đang phấn đấu sản lượng đạt trên 2,4 triệu tấn, trong đó có 1,2 triệu tấn cá tra, 380.000 tấn tôm phục vụ chế biến để xuất khẩu hai mặt hàng này đạt giá trị 3,2 tỷ đô-la Mỹ và nâng giá trị thủy sản nuôi lên 46.000 tỷ đồng. Mặc dù sản xuất nông nghiệp có bước phát triển nhanh, nhưng năng lực của ngành công nghiệp chế biến lại chưa đáp ứng được nhu cầu chế biến nông, thủy sản của toàn vùng. Tình trạng chung ở các địa phương trong vùng là khép kín sản xuất, tiêu thụ. Đặc biệt, sự phối hợp, liên kết trong phát triển giữa các địa phương trong vùng chưa tập trung và kém hiệu quả. Đây chính là một trong những trở lực làm cho khu vực này chậm phát triển và người chịu thiệt thòi không ai khác chính là nông dân. Đơn cử như mặt hàng gạo. Từ cuối tháng 6 đến nay, giá gạo nguyên liệu đã tăng, gạo 15%, 25% tấm trong nước cao hơn giá xuất khẩu trung bình thế giới. Trong khi đó, các doanh nghiệp lại đối mặt tình trạng khan hiếm hàng, lượng gạo trong dân còn lại rất ít. Trong khi đó theo Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, từ năm 2015, các tỉnh ĐBSCL sẽ giảm dần diện tích lúa để đến năm 2020 trở đi, ổn định sản lượng lúa hằng năm đạt 24,5 triệu tấn, giảm 500.000 tấn so với năm 2014 theo quy hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, phù hợp nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu thời gian tới. Do đó các tỉnh cần bố trí lại việc sản xuất lúa gạo theo hướng nâng cao chất lượng, giá trị bằng cách sử dụng 1,82 triệu héc-ta đất phục vụ trồng lúa, trong đó có 1,7 triệu héc-ta chuyên canh lúa, 185.000 héc-ta luân canh lúa – màu (ngô, đậu tương, rau màu), 240.000 héc-ta luân canh lúa – thủy sản. Vòng quay của đất lúa sẽ giảm từ 2,3 vòng xuống còn 2,1 vòng trong năm. Diện tích canh tác lúa hằng năm từ 4,25 triệu lượt héc-ta giảm còn 4 triệu lượt héc-ta. Các tỉnh sử dụng các giống lúa có năng suất, chất lượng cao, đạt chuẩn nhằm nâng năng suất lúa bình quân 5,9 tấn/héc-ta/năm hiện nay lên 6,2 tấn/héc-ta/năm. Đồng thời, áp dụng các biện pháp thâm canh tiên tiến, nâng tỷ lệ sử dụng giống xác nhận từ 70% lên 80%; đẩy mạnh cơ giới hóa và công nghệ sau thu hoạch để tăng năng suất, hạ giá thành sản xuất. 

Đẩy mạnh liên kết trong chuỗi giá trị nông sản

Để khắc phục tình trạng “được mùa, rớt giá” cho khu vực ĐBSCL, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng cần phải đẩy mạnh liên kết trong chuỗi giá trị nông sản, huy động các nguồn lực trong nước kết hợp thu hút đầu tư nước ngoài để khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của vùng. Theo đó cần rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, tránh tình trạng đầu tư phát triển công nghiệp chống chéo; trên cơ sở thế mạnh của mỗi địa phương cần tổ chức phân công vai trò, nhiệm vụ cụ thể giữa các tỉnh trong vùng, bảo đảm lợi ích địa phương và hài hòa với sự phát triển chung của vùng và của cả nước. 

Đẩy mạnh liên kết giữa doanh nghiệp – doanh nghiệp và nông dân – nông dân. Qua đó, thúc đẩy xây dựng những vùng nguyên liệu, ứng dụng tốt những thành tựu khoa học kỹ thuật để có thể kiểm soát được số lượng lẫn chất lượng. Chính sự gia tăng giá trị sản phẩm sẽ là động lực lớn nhất để thúc đẩy nông dân gắn kết với doanh nghiệp. Muốn vậy, cần tập hợp lực lượng sản xuất, tập hợp những doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ thành hệ thống. Trong đó, vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề sẽ là cầu nối để liên kết doanh nghiệp lại với nhau. Đồng thời kiên quyết xóa bỏ tập quán sản xuất, kinh doanh theo kiểu cảm tính, chạy theo phong trào. Đây là những yếu tố quan trọng giúp cho người nông dân không lo về vấn đề đầu ra, còn doanh nghiệp sẽ chủ động hơn về nguồn nguyên liệu. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh liên kết với thị trường ngoài nước, để có thể nắm được thông tin thị trường nhanh, đầy đủ, góp phần cạnh tranh sòng phẳng với các sản phẩm nông sản ngoại nhập ngay tại thị trường trong nước. 

MUA GÌ

Lâm Đồng: Giá sầu riêng tăng cao

Vài tuần trở lại đây, người dân các huyện phía Nam tỉnh Lâm Đồng như Bảo Lâm, Bảo Lộc, Đạ Huoai, Đạ Tẻh… lại đổ xô mua giống sầu riêng để trồng bất chấp khuyến cáo của ngành nông nghiệp. Theo đó, giá cây sầu riêng con tăng vọt lên 40.000 - 46.000 đồng/cây, cao hơn từ 7.000 - 10.000 đồng/cây. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng phát triển nóng cây sầu riêng là từ đầu vụ đến nay, thương lái đổ xô đi mua sầu riêng với giá từ 24.000 - 26.000 đồng/kg, kể cả trái non, cao gần gấp đôi so với thời điểm này năm trước. Trung tâm Nông nghiệp huyện Bảo Lâm khuyến cáo, nhà vườn cần tỉnh táo và rút ra bài học cho mình trong việc chuyển đổi giống cây trồng nhằm tránh những trường hợp chuyển đổi ồ ạt như quả chanh dây và dự án sầu riêng Dona trước đây để tránh những thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra.
ảnh: Thu hái sầu riêng
 
Đồng bằng sông Cửu Long: Giá lúa tiếp tục tăng, gạo thành phẩm giảm nhẹ

Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết giá lúa khô tại kho loại thường trong tuần qua dao động từ 5.600 – 5.700 đồng/kg, còn giá lúa dài từ 5.750 – 5.850 đồng/kg, cùng tăng 50 đồng/kg so với tuần trước đó. Gạo nguyên liệu loại 1 làm ra gạo 5% tấm vẫn đứng giá so với tuần trước ở mức 7.350 – 7.450 đồng/kg tùy từng địa phương, trong khi gạo nguyên liệu làm ra gạo 25% tấm tăng 50 đồng/kg lên 7.250 – 7.350 đồng/kg tùy chất lượng và địa phương. Giá gạo thành phẩm 5% tấm không bao bì tại mạn cũng không thay đổi, đứng tại ngưỡng 8.850 – 8.950 đồng/kg, trong khi gạo 15% tấm lại giảm 50 đồng/kg xuống 8.500 – 8.600 đồng/kg và gạo 25% tấm cũng giảm 50 đồng xuống 7.950 – 8.050 đồng/kg tùy chất lượng và địa phương. Đến nay các tỉnh và thành phố vùng ĐBSCL đã xuống giống vụ Hè Thu năm 2014 được 1,675 triệu héc-ta, sản lượng đạt 9,17 triệu tấn lúa. Vụ Thu Đông đã xuống giống được khoảng 820.000 héc-ta, sản lượng ước 1,28 triệu tấn lúa.
 
Được mùa khoai môn 

Theo một số hộ dân trồng khoai môn ở xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời (Cà Mau) hiện đã đến thời điểm thu hoạch, nhờ thời tiết thuận lợi nên hầu hết diện tích khoai môn của người dân đều phát triển tốt. Tuy được mùa song hiện giá khoai môn ở mức thấp, thương lái đến tận nơi thu mua chỉ từ 10.000 - 12.000 đồng/kg thay vì 14.000 - 15.000 đồng/kg như năm trước. Tuy nhiên, với mức giá và năng suất này thì người trồng khoai vẫn có nguồn thu cao hơn năm trước khoảng 2 – 3 triệu đồng/công.
 
Sóc Trăng : Heo giống cung không đủ cầu

Tại các trại heo giống ở Sóc Trăng, heo giống tốt đang hút hàng chưa từng có. Nhiều trại sản xuất heo giống đã cạn nguồn cung, trong khi nhu cầu tái đàn nuôi heo thịt ở các tỉnh trong vùng tăng lên rất cao. Ông Trương Văn Đúng, Giám đốc Trung tâm giống vật nuôi Sóc Trăng cho biết: Với khả năng sản xuất con giống từ 3.500 - 4.000 con/năm nhưng Trung tâm vẫn không đủ con giống bán. Từ nay đến tháng 12/2014, trung tâm sẽ cung cấp trên 700 con heo nái hậu bị theo yêu cầu đặt hàng của các chủ trang trại và hộ chăn nuôi từ các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, An Giang, Kiên Giang… giá heo nái hậu bị 110.000 đồng/kg tính trong 20kg đầu và từ 21 kg trở lên giá 55.000 đồng/kg; giá heo con giống 110.000 đồng/kg tính trong 15 kg đầu và từ 16 kg trở lên giá 55.000 đồng/kg. Đây là mức giá heo giống cao nhất trong vòng 4 năm qua. Theo một chủ trang trại sản xuất cung cấp giống ở huyện Mỹ Xuyên cho biết thêm, giống heo Landrace và Yorshine được người chăn nuôi chuộng nhất.                                  

Giá phân bón tại một số tỉnh 

Thị trường

Sản phẩm

Giá (đồng/kg)

Trà Vinh

NPK Cò Pháp (20+20+15)

14.600

NPK Đầu Trâu (20+20+15)

13.400

NPK Đầu Trâu TE (20+20+15)

13.800

Urê Liên Xô

8.200

Urê Cà Mau (hạt đục)

8.000

Lâm Đồng

 

NPK Cò Pháp (20+20+15)

15.000

NPK 7+7+14 Việt Pháp

12.000

NPK Đức tím

18.000

Kali đỏ ( Cloruakali)

11.000

Kali trắng

13.000

Urê Phú Mỹ

10.500

An Giang

NPK Việt Nhật (16+16+8)

10.500

NPK Đầu trâu TE(20+20+15)

11.500

Lân Long Thành

2.300

DAP Hồng Hà

12.000

Urê Phú Mỹ

8.000

Đắk Lắk

Đạm Phú Mỹ

12.000

Lân Lâm Thao, bao 50kg

7.200

Lân Văn Điển

6.000

 

 


 
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 









 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

BÁN GÌ

Lâm Đồng: Giá cà chua giảm mạnh

Huyện Đơn Dương là nơi có diện tích cà chua lớn nhất Lâm Đồng, khoảng 1.000 - 1.500 héc-ta. Nhưng những tháng gần đây, giá cà chua luôn ở mức chạm đáy, chỉ 1.000 đồng/kg loại 1, loại 2 và loại 3 gần như đổ bỏ. Lượng tiêu thụ rất kém khiến nhiều hộ nông dân thua lỗ đã quyết định phá bỏ vườn cà chua để trồng bắp và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Trong khi theo tính toán, chi phí cho một cây cà chua là 8.000 đồng. Với tình trạng cà chua không có người mua như hiện nay, mỗi sào cà chua nông dân chịu lỗ trên 20 triệu đồng.

Diện tích cà chua Đơn Dương tập trung chủ yếu ở các xã Lạc Lâm, Lạc Viên, Tu Tra, Đạ Ròn và thị trấn Thạnh Mỹ với rất nhiều hộ có quy mô trồng từ 1 héc-ta trở lên. Để cầm cự với cây cà chua gần một năm nay, nhiều hộ nông dân đã phải cầm giấy tờ nhà đất để vay ngân hàng, nhưng vẫn cứ liên tục lỗ từ đợt này qua đợt khác.
ảnh: Cà chua phải đổ bỏ vì không tiêu thụ được
 
Đồng Nai: Giá cà phê tăng cao

Theo Sở Công Thương tỉnh Đồng Nai, hiện nay, trên địa bàn tỉnh giá cà phê nhân xô đang được các đại lý thu mua từ 42 - 42,5 triệu đồng/tấn, tăng gần 5 triệu đồng/tấn so với thời điểm cuối tháng 9. Như vậy, sau một thời gian dài giá cà phê giảm xuống dưới 38 triệu đồng/tấn, thì đến đầu tháng 10, giá cà phê trên thị trường đã tăng trở lại ở mức kỷ lục. Do nhiều dự báo cho rằng năng suất cà phê trên thế giới niên vụ 2014 - 2015 sẽ giảm nên nhiều nhà đầu cơ đã đồng loạt mua vào để tăng lượng dự trữ hàng. 

Tại Đồng Nai, vụ cà phê mới bắt đầu thu hoạch từ cuối tháng 11/2014 đến tháng 2/2015, trong khi đó trên địa bàn tỉnh đến thời điểm này, mặc dù giá cà phê trên thị trường đã tăng ở mức cao nhưng ít nông dân trong tỉnh còn hàng để bán.
 
Giá khoai lang giảm

Giá khoai lang tại Trà Vinh liên tục giảm và hiện chỉ còn 2.300 - 2.500 đồng/kg, giảm khoảng 2.000 đồng/kg so cùng thời điểm này năm ngoái và cũng rất khó tiêu thụ. Ngoài ra, do ảnh hưởng thời tiết, sâu bệnh nên năng suất khoai vụ này chỉ đạt khoảng 6 tấn/héc-ta, giảm khoảng 2 tấn/héc-ta so vụ trước. Vụ khoai lang năm nay, nông dân ở khu vực đất giồng cát, triền giồng huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh trồng được gần 200 héc-ta khoai lang, giảm khoảng 80 héc-ta so với vụ khoai năm ngoái. Giống được nông dân huyện Duyên Hải chọn trồng chủ yếu là giống khoai lang tím Nhật. Đây là giống khoai mới, được nông dân đưa vào trồng thay thế các giống khoai đã trồng trước đây như giống khoai lang Bình Ty trắng, khoai lang bí đỏ…
 
Tiêu thụ phân bón chưa cao

Thị trường phân bón trong nước trung tuần tháng 10 có một số chuyển biến đáng chú ý nhưng lượng hàng tiêu thụ chưa cao. Giá các loại phân bón nhìn chung vẫn ở mức ổn định. Tại Lào Cai, lượng phân bón nhập tăng mạnh,  đặc biệt là phân DAP do đối tác Trung Quốc trả hàng theo hợp đồng. Tại thị trường miền Trung, giá các loại phân bón ổn định ở mức thấp  do nhu cầu thấp bởi  vùng Đồng bằng miền Trung đang thu hoạch lúa , Tây Nguyên  đã qua đợt chăm bón lần 3. Thị trường miền Tây Nam Bộ được đánh giá là có nhiều khởi sắc dù vùng Đông Nam Bộ đã vào cuối vụ nhưng do một số vùng Đồng bằng sông Cửu Long vào vụ (chủ yếu các vùng có đê bao). Hầu hết  các đại lý chủ yếu mua ký quỹ hàng về trong tháng 10 để có giá rẻ và không phải nhập kho sớm nhưng chưa có nhiều giao dịch mua bán. Theo thống kê sơ bộ, hiện các đại lý lớn đã mua ký quỹ khoảng 70 - 80% dự kiến lượng tiêu thụ kali hạt trong vụ đông xuân.
 
Trà Vinh: Nhãn Bến Tre đủ điều kiện xuất khẩu sang Mỹ

Qua chuyến khảo sát vùng trồng nhãn ở xã Tam Hiệp, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre, Cơ quan Kiểm dịch thực vật, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Mỹ đã chính thức đồng ý cấp mã số cho 34 héc-ta cây nhãn của địa phương này đủ điều kiện xuất khẩu sang Mỹ. Xã Tam Hiệp, huyện Bình Đại là địa phương trồng nhãn chuyên canh lớn nhất tỉnh Bến Tre với hơn 550 héc-ta gồm 2 loại: Nhãn Tiêu huế và nhãn Xuồng cơm vàng. Trong đó, có 18 hộ dân trồng 34 héc-ta nhãn theo tiêu chuẩn VietGap với mỗi héc-ta đạt năng suất 12 tấn/năm. Việc Cơ quan Kiểm dịch thực vật, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Mỹ cấp mã số tạo điều kiện cho trái nhãn địa phương xuất khẩu đạt giá trị cao, tăng thu nhập nông dân. Trước đó, trái chôm chôm ở Tổ hợp tác sản xuất chôm chôm Tiên Phú, xã Tiên Long, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre cũng được cấp mã số xuất sang thị trường quốc gia này.

LƯU Ý CẢNH BÁO

Phát triển cây ngô ở Đồng bằng sông Cửu Long: Bài toán khó vẫn nằm ở khâu tiêu thụ
 
Tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), việc chuyển đổi cây trồng trên nền đất lúa đang là sự quan tâm của hàng triệu nông dân. Chuyển đổi một phần diện tích hay giảm bớt vụ trồng lúa kém hiệu quả tại ĐBSCL sang các cây trồng khác cho hiệu quả kinh tế cao hơn, đặc biệt là cây ngô là rất cần thiết, phù hợp với đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
 
Tiêu thụ sản phẩm - vấn đề được quan tâm 

Chủ trương chuyển đổi một phần diện tích đất lúa sang trồng ngô (bắp) do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) thực hiện tiếp tục tạo được sự quan tâm đặc biệt đối với các địa phương trong khu vực, bởi chi phí cho việc chuyển đổi hiện trạng đất canh tác cũng như đầu ra sản phẩm của cây ngô... vẫn còn là một bài toán khó. 

Số liệu từ Cục Trồng trọt cho thấy, trong năm 2013, vùng ĐBSCL đã chuyển đổi thành công trên 87.000 héc-ta đất lúa sang trồng ngô, đỗ tương, mè, dưa hấu... cho kết quả khả quan. Tại tỉnh An Giang, phần lớn bà con đã có kinh nghiệm trong việc trồng các loại cây như ngô, mè... Tuy nhiên, vấn đề khiến bà con cũng như ngành nông nghiệp địa phương lo lắng chính là ở thời vụ thu hoạch. Bởi khi mở rộng diện tích, sản lượng ngô, mè tăng lên chắc chắn sẽ gặp vướng mắc ở khâu tiêu thụ sản phẩm. Thời gian qua, đã có một số doanh nghiệp đến khảo sát bao tiêu nhưng không thành công do hợp đồng không chặt chẽ.  Hiện nay, ngành nông nghiệp tỉnh cũng chưa kết nối được với các doanh nghiệp. Tại tỉnh Long An, 3 loại cây trồng được xác định là chủ lực trong công cuộc chuyển đổi đất lúa là ngô, vừng và đậu tương, trong đó ngô được xác định là cây trồng quan trọng. Long An cũng là tỉnh được chọn để thực hiện dự án “Xây dựng mô hình chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang trồng ngô nhằm nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp” ở ĐBSCL đã được Viện KHKT Nông nghiệp miền Nam - Trung tâm Nghiên cứu Chuyển giao Tiến bộ Kỹ thuật Nông nghiệp thực hiện. Việc triển khai dự án bước đầu đã cho thấy những kết quả khả thi khi 20 héc-ta ruộng mô hình với các giống NK7328, NK66, NK67 tại xã Mỹ Hạnh Bắc, Đức Hòa, Long An bước vào thời điểm thu hoạch với những trái ngô đặc hạt vàng óng. Mặc dù gặp một số điều kiện bất thuận như nắng hạn, không có mưa vào thời điểm xuống giống, cuối vụ mưa nhiều nhưng với sự chăm sóc đầy đủ của bà con, cây ngô vẫn phát triển rất tốt, lá xanh, bắp to, ít sâu bệnh, chứng minh khả năng sinh trưởng tốt, tiềm năng năng suất cao của các giống ngô này trên đồng đất địa phương. Tuy nhiên, vấn đề tiêu thụ sản phẩm vẫn chưa được triển khai một cách đồng bộ và cụ thể khiến bà con còn nhiều băn khoăn.

Giúp bà con nâng cao thu nhập

Tại hội nghị chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng ngô, đỗ tương và các cây trồng khác ở ĐBSCL tổ chức tại Tiền Giang, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát nêu rõ mục tiêu cuối cùng của việc chuyển đổi cây trồng là giúp bà con nâng cao thu nhập một cách bền vững, thay vì chạy theo thành tích sản xuất lúa. Thực tế cho thấy, ĐBSCL có lợi thế trồng ngô khi cây ngô cho năng suất cao, cùng với thị trường ngô đang mở rộng và rất ổn định. Hiện sản lượng ngô trong nước mới chỉ đạt trên 5 triệu tấn, trong khi nhu cầu thực tế đang thiếu từ 2 - 3 triệu tấn mỗi năm trước đà phát triển mạnh mẽ của ngành chăn nuôi và thủy sản. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải nhanh chóng hoàn thành sớm công tác quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Bên cạnh đó, về phía các địa phương cũng cần quy hoạch, có kế hoạch chuyển đổi cây trồng cụ thể cho từng vùng, từng năm. Các doanh nghiệp cần tham gia giải quyết đầu ra cho sản phẩm của các cây trồng chuyển đổi. “Các tỉnh phải chủ động và có quy hoạch cụ thể các vùng chuyển đổi của địa phương mình. Trên cơ sở quy hoạch, mỗi địa phương cần có kế hoạch cụ thể cho từng năm và các giải pháp đồng bộ để thực hiện quy hoạch đề ra. Quy hoạch ấy cần được tuyên truyền rộng rãi để cho bà con biết và hưởng ứng, các doanh nghiệp biết để tham gia từ đầu, đặc biệt là khâu tiêu thụ nông sản do nhân dân làm ra”, Bộ trưởng Cao Đức Phát chỉ rõ.

Qua thực tế của các mô hình thí điểm trồng ngô ở Long An, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang đều cho hiệu quả cao hơn trồng lúa từ 30 - 100%. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nếu muốn đạt hiệu quả như mong đợi khi thực hiện đại trà phải có chính sách đầu tư cho cơ sở hạ tầng, nghiên cứu nhiều giống có chất lượng. Điều quan trọng nhất là phải đảm bảo đầu ra của các loại hàng hóa được chuyển đổi, kể cả ở nội địa cũng như xuất khẩu trong một giai đoạn nhất định, có như vậy bà con mới yên tâm trồng trọt, sản xuất.

NHẬN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG

Tạm trữ cà phê để trợ giá cho bà con
 
Khác với những năm trước, đầu vụ cà phê 2014 - 2015 giá cà phê nội địa và quốc tế có xu hướng tăng. Thế nhưng Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (Vicofa) cho biết, Vicofa vẫn sẽ kiến nghị Chính phủ tạm trữ 200.000 tấn cà phê trong niên vụ này để hỗ trợ giá cho nông dân.

Theo ông Lương Văn Tự - Chủ tịch Vicofa, mỗi vụ cà phê chỉ thu hoạch trong khoảng 2 tháng nhưng lại tiêu dùng cho cả năm. Người nông dân thường có xu hướng bán cà phê ngay sau khi thu hoạch để chi trả tiền phân bón và chi tiêu trong gia đình. Do vậy theo quy luật thông thường, một khi nông dân bán ra nhiều giá sẽ giảm. Do đó cần tạm trữ để giúp giá cà phê không xuống quá thấp. Đây không phải là lần đầu Vicofa đưa ra đề nghị tạm trữ vào mỗi đầu vụ cà phê. Tuy nhiên, trong mấy năm trở lại đây, kiến nghị này không được chấp nhận.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong 9 tháng của năm 2014, Việt Nam xuất khẩu được 1,35 triệu tấn cà phê với tổng trị giá 2,81 tỷ đô-la Mỹ, tăng gần 32% về khối lượng và gần 28% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá cà phê xuất khẩu bình quân đạt 2.068 đô-la Mỹ/tấn, giảm gần 3,6% so với năm 2013. Theo Tổ chức Cà phê thế giới (ICO), hiện Việt Nam chiếm 15% sản lượng cà phê của toàn thế giới, xuất khẩu chiếm 17% thị phần của thế giới. Nếu chỉ tính riêng mặt hàng cà phê robusta, Việt Nam chiếm 40% thị phần.
 
Chủ động chuẩn bị thu hoạch cà phê
 
Theo thông tin mới nhất từ Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, hiện nay, các nông hộ, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê ở các tỉnh Tây Nguyên đã chuẩn bị các điều kiện cần thiết để bắt đầu từ tháng 11 trở đi tập trung thu hoạch, chế biến nhằm đảm bảo chất lượng cà phê nhân xuất khẩu.

Các tỉnh Tây Nguyên hiện có trên 561.534 héc-ta cà phê, chủ yếu là cà phê kinh doanh cho thu hoạch. Theo dự báo của các địa phương, năm nay do thời tiết thuận lợi, giá cà phê nhân tăng cao, nên cà phê  được mùa, sản lượng có khả năng đạt trên 1,3 triệu tấn cà phê nhân, tăng trên 60.000 tấn so với niên vụ trước. Hiện các nông hộ, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh cà phê ở các tỉnh Tây Nguyên đã tu bổ, sửa chữa hàng ngàn cơ sở chế biến ướt, chế biến khô cà phê nhân. Đặc biệt, các tỉnh Tây Nguyên đã khuyến khích các doanh nghiệp, các nông hộ đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến cà phê theo quy trình công nghệ chế biến ướt. Áp dụng công nghệ mới này nhằm góp phần nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu, giảm thiểu sức lao động. Tại tỉnh Đắk Lắk hàng trăm cơ sở chế biến cà phê đã đầu tư tu bổ, làm vệ sinh lại các hệ thống dây chuyển sản xuất để sẵn sang phục vụ chế biến cà phê trên địa bàn. Ngoài ra, các tỉnh Tây Nguyên cũng đã tu bổ, làm mới hàng nghìn mét vuông sân phơi, nhà kho, mua sắm mới hàng trăm ngàn bao tải, tấm bạt, phương tiện vận chuyển (xe máy cày, ô tô), sửa chữa lại hệ thống giao thông từ các nương rẫy cà phê ra các trục đường liên thôn, liên xã nhằm phục vụ tốt yêu cầu thu hoạch, vận chuyển cà phê quả tươi về sân phơi, nhà kho…

Hiện nay, các nông hộ, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê ở các tỉnh Tây Nguyên đang tuyển dụng thêm lao động, đồng thời, tăng cường quản lý, bảo vệ để vườn cây có tỷ lệ quả chín đạt từ 90% trở lên mới đưa vào thu hoạch, hạn chế tình trạng thu hái quả xanh để vừa góp phần nâng cao chất lượng cà phê nhân xuất khẩu vừa giảm tổn thất, thiệt hại kinh tế cho các nông hộ. 
Nhà máy chế biến cà phê xuất khẩu tại Tây Nguyên

CHUYỂN ĐỘNG THỊ TRƯỜNG

 Hoàn thiện đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam 
 
Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải về Đề án phát triển thương hiệu gạo của Việt Nam.
 
Theo đó, việc xây dựng Đề án phát triển thương hiệu gạo của Việt Nam là rất cần thiết nhằm góp phần tăng giá trị và mở rộng thị trường xuất khẩu gạo, thúc đẩy tái cơ cấu ngành lúa, gạo theo hướng hiệu quả, bền vững và nâng cao lợi ích của toàn ngành.

Đề án sẽ theo hướng xây dựng và phát triển thương hiệu gạo của Việt Nam ở cả 3 cấp độ: Quốc gia, vùng và địa phương, doanh nghiệp và sản phẩm. Trước mắt vùng Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực sản xuất và xuất khẩu gạo trọng điểm để xây dựng thương hiệu. Đồng thời, xác định các định hướng xây dựng và phát triển thương hiệu gạo của Việt Nam trên cơ sở phân tích nhu cầu thị trường, khả năng sản xuất, tiềm năng thâm nhập vào các phân khúc của thị trường gạo thế giới trong thời gian tới. Bên cạnh đó đề ra những nội dung, dự án và giải pháp cần thiết trong Đề án để đẩy mạnh công tác xây dựng và phát triển thương hiệu gạo các cấp độ, đồng thời có các chính sách phù hợp để khuyến khích, hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp thực hiện công tác xây dựng và phát triển thương hiệu gạo.

Từ kết luận đó, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các bộ, các địa phương, doanh nghiệp liên quan tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện Đề án theo hướng xây dựng và phát triển thương hiệu gạo của Việt Nam ở cả 3 cấp độ: Quốc gia, vùng và địa phương, doanh nghiệp và sản phẩm; trước mắt vùng Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực sản xuất và xuất khẩu gạo trọng điểm để xây dựng thương hiệu.

Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tập trung nguồn lực để hoàn thiện Đề án và báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 12/2014.     

Hướng mới cho xuất khẩu thủy sản
 
Đa dạng hóa đối tượng nuôi nhằm tăng thêm giá trị kinh tế cho nông hộ và ngành thủy sản là một hướng đi đúng của tỉnh An Giang. Thời gian qua, một số doanh nghiệp (DN) trong tỉnh đã bắt tay nuôi thử nghiệm cá rô phi và đã thành công, mở ra một hướng đi mới cho xuất khẩu thủy sản của tỉnh.

An Giang có trên 1.500 héc-ta mặt nước nuôi trồng thủy sản nhưng kim ngạch vẫn chưa tương xứng với lợi thế và tiềm năng. Trước tình hình này, một số DN trong và ngoài tỉnh đã liên kết với nông dân nuôi và thu mua xuất khẩu cá rô phi. Với giá thu mua từ 32.000 – 34.500 đồng/kg, người nuôi lãi từ 2.000 - 4.000 đồng/kg. Thậm chí, để ổn định chân hàng phục vụ xuất khẩu, một số DN đã đầu tư nuôi với hình thức nuôi vèo.

 Đưa cá rô phi vào chương trình xuất khẩu trọng điểm của tỉnh là một việc làm cần thiết. Hiện nay, giá xuất cá tra bình quân 2,2 – 2,4 đô-la Mỹ/kg, thời gian nuôi 6 tháng. Trong khi ở cá rô phi, các chỉ số vừa nêu cũng tương đương nhưng giá trị xuất khẩu cao hơn gấp đôi cá tra. Hiện tại, 1 kg cá rô phi, ngư dân nuôi lãi từ 2.000 - 4.000 đồng, trong khi cá tra thấp hơn rất nhiều. Và chỉ có nuôi xuất khẩu thì sản lượng nuôi mới nhiều, đời sống của đại bộ phận nông dân mới được cải thiện. Đây là một hướng đi mới nhằm khôi phục lại kinh tế nông hộ, kinh tế trang trại vốn dĩ đã hình thành trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, thành công lớn nhất của chương trình này là DN tự bỏ tiền thực hiện (không cần đến vốn từ ngân sách), trong khi ở các huyện, thị, tỉnh đã chi hàng trăm triệu đồng cho việc tổ chức thực hiện mô hình nhưng sản phẩm làm ra chưa xuất khẩu được. 

Đây là việc mà các nhà quản lý cần nghiên cứu, cân nhắc để cá rô phi sớm là đối đượng được đưa vào chương trình trọng điểm, sản xuất phục vụ xuất khẩu trong thời gian sớm nhất. Có xuất khẩu được thì bà con nông dân mới yên tâm đầu tư  nuôi với quy mô lớn.

HÀNG VIỆT

Để hàng Việt chiếm lĩnh thị trường nội địa một cách bền vững 
 
Theo Bộ Công Thương, hiện các sản phẩm hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam đã chiếm từ 80 - 90% trong hệ thống các siêu thị, cửa hàng, chợ truyền thống. Tuy nhiên để hàng Việt chiếm lĩnh thị trường nội địa một cách bền vững cần có những bước đi và giải pháp phù hợp.

Đưa hàng Việt vào siêu thị

Theo đánh giá của các hệ thống phân phối lớn, gần đây hàng Việt đã được chú trọng nhiều đến chất lượng, mẫu mã nên được người tiêu dùng (NTD) tin tưởng và đón nhận nhiều hơn. Riêng hàng nông sản của Việt Nam chiếm tới 90% tại các hệ thống siêu thị trong cả nước. Để hàng Việt có chỗ đứng trong hệ thống siêu thị có công không nhỏ từ các nhà phân phối đã hỗ trợ các nhà sản xuất cải thiện chất lượng, mẫu mã hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường cũng như tiêu chuẩn của các hệ thống phân phối hiện đại. Những DN phân phối này đã hợp tác với người nông dân để tổ chức lại sản xuất căn cứ vào yêu cầu của thị trường để cung cấp giống, cung cấp cây trồng, hướng dẫn kỹ thuật cho bà con sản xuất thậm chí có những nơi đầu tư ứng vốn, thu mua, tiêu thụ toàn bộ sản phẩm này. Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà Nội - Vũ Vinh Phú cho rằng, với 85% hàng hóa Việt Nam được bày bán trong các hệ thống siêu thị và trung tâm thương mại đã cho thấy sự gắn bó mật thiết giữa sản xuất và phân phối trong một chuỗi hoạt động thương mại. Từ đây, không chỉ siêu thị nắm được nguồn hàng từ đồng ruộng mà nông dân cũng biết làm ra sản phẩm theo thị trường, cách làm này mang lại chủ động, hiệu quả cho cả hai bên và tất nhiên NTD luôn được hưởng lợi.

Mở rộng sản mô hình tiêu thụ nông

Để đẩy mạnh tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp từ năm 2010 đến nay Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và 12 tỉnh, thành phố thí điểm các mô hình: Doanh nghiệp – hợp tác xã – hộ nông dân ở vùng sản xuất hàng hoá tập trung, doanh nghiệp cung cấp vật tư nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi, quy trình kỹ thuật và nêu rõ yêu cầu chất lượng nông sản đối với các hợp tác xã, sau đó giao lại cho xã viên thực hiện; mô hình doanh nghiệp – hộ kinh doanh – hộ nông dân áp dụng ở vùng sản xuất phân tán. Bộ Công Thương còn tổ chức kết nối doanh nghiệp tham gia mô hình với các siêu thị Co.op Mart, Hapro, Intimex… để tạo cầu nối tiêu thụ trực tiếp nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp cho nông dân. 

Theo Phó Vụ trưởng, Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương) Trần Nguyên Năm, bên cạnh các chương trình liên kết địa phương giúp nhà sản xuất và phân phối gặp nhau, triển khai các dự án hỗ trợ doanh nghiệp đưa hàng Việt về nông thôn, sắp tới Bộ Công Thương sẽ xây dựng thí điểm 63 điểm bán hàng mang thương hiệu Việt, ưu tiên bán trong các chợ truyền thống vào năm 2015 và nâng lên 100 điểm giai đoạn 2016 – 2020. 

Tăng cường các kênh phân phối ở vùng sâu, vùng xa 

Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định phê duyệt Đề án phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2014 – 2020, với tổng kinh phí thực hiện khoảng 228,93 tỷ đồng, đề án nhằm mục tiêu phấn đấu đến năm 2015, 90% người tiêu dùng và DN biết đến Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; đến năm 2020, trên 70% biết đến nhóm các hoạt động phát triển thị trường với tên gọi “Tự hào hàng Việt Nam”; Phấn đấu đến năm 2020 tăng thị phần hàng Việt Nam có thế mạnh tại các kênh phân phối lên trên 80% và 100% các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai trên địa bàn chương trình xây dựng điểm bán hàng Việt Nam cố định, bền vững với tên gọi “Tự hào hàng Việt Nam”…      

Để đạt được mục tiêu đề ra, ngoài việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường các kênh phân phối ở vùng sâu, vùng xa và các chương trình kích cầu tiêu dùng của chính DN. Mặt khác cần có quy định về tỷ lệ bán hàng Việt đối với từng mặt hàng mà DN trong nước đã sản xuất tại các siêu thị, trung tâm thương mại. Điều này không chỉ tạo cho DN sản xuất trong nước có cơ hội quảng bá sản phẩm, mà còn giúp người tiêu dùng khi đến những kênh phân phối hiện đại này tiếp cận được với hàng Việt. Bên cạnh đó, tới đây, khi Cộng đồng Kinh tế Asean được thành lập vào năm 2015, các DN Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường, nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Bởi vậy, các DN Việt cần có chiến lược dài hạn và liên kết chặt chẽ để sản xuất hàng hóa chất lượng, giá cả phù hợp với từng đối tượng tiêu dùng. Có như vậy, sản phẩm hàng hóa Việt Nam mới có thể cạnh tranh bình đẳng với hàng hóa ngoại nhập để có thể chiếm lĩnh được thị trường nội địa một cách bền vững.

NHÀ NÔNG CẦN BIẾT

Bón phân cho hồ tiêu thời kỳ kinh doanh 
 
Công ty CP Phân bón Bình Điền đã nghiên cứu và sản xuất một số chủng loại phân bón thích hợp cho cây hồ tiêu kể cả thời kỳ kiến thiết cơ bản và thời kỳ kinh doanh. Phân Đầu Trâu Hồ tiêu kinh doanh có chứa hàm lượng dinh dưỡng 19-9-19+TE vừa tránh lãng phí cho người trồng, vừa đạt năng suất cao, tiện lợi cho người sử dụng mà không gây ô nhiễm môi trường. Xin được giới thiệu một số mức bón để bà con trồng tiêu tham khảo:

Trên đất đỏ vàng hay nâu đỏ, độ phì cao, mật độ tiêu trung bình 2.000 nọc/héc-ta, bón khoảng 10 tấn phân chuồng hoai, bổ sung 2 - 3 tấn phân hữu cơ sinh học Đầu Trâu, 500 - 600 kg vôi sau khi thu hoạch, tỉa cành và tạo tán.

Lượng phân Đầu Trâu 19-9-19+TE định mức 1.000 kg/héc-ta, chia ra bón như sau: Lần 1 bón đầu mùa mưa thúc ra hoa 200 kg/héc-ta; Lần 2 bón nuôi quả 250 kg/héc-ta; Lần 3 bón nuôi quả 300 kg/héc-ta; Lần 4 bón nuôi quả và dự trữ cho cây 250 kg/héc-ta. Lượng phân khoáng này tương đương 190 kg N + 90 kg P205 và 190 kg K20/héc-ta.

Trên đất xám nhưng đã bón nhiều phân vào các năm trước, mật độ trung bình 2.000 cây/héc-ta. Cũng bón 10 - 20 tấn phân chuồng hoai, bổ sung 2 - 3 tấn phân hữu cơ sinh học Đầu Trâu, có thể bón thêm 500 kg vôi nếu đất hơi chua, hoặc để xử lý đất tốt hơn. Lượng phân NPK Hồ tiêu kinh doanh là 1.200 kg/héc-ta.  Lần 1 bón đầu mùa mưa 250 kg/héc-ta;  Lần 2 bón nuôi quả 300 kg/héc-ta; Lần 3 bón nuôi quả 350 kg/héc-ta; Lần 4 bón nuôi quả và dự trữ cho cây 300 kg/héc-ta. Lượng phân khoáng này tương đương 228 kg N + 108 P205 + 228 K20/héc-ta.

Đối với các hộ thâm canh cao, mật độ trung bình 2.000 cây/héc-ta, cũng bón 10 - 20 tấn phân hữu cơ hoai, phối hợp với 2 - 3 tấn phân hữu cơ sinh học Đầu Trâu kết hợp 500 - 600 kg vôi vào sau khi thu hoạch, tỉa cành tạo tán. Lượng phân NPK Đầu Trâu kinh doanh là 1.500 kg/héc-ta, chia ra: Lần 1 bón đầu mùa mưa thúc ra hoa 350 kg/héc-ta; Lần 2 bón nuôi quả 400 kg/héc-ta. Lần 3 bón nuôi quả 400 kg/héc-ta. Lần 4 bón nuôi quả dự trữ cho cây 350 kg/héc-ta. Lượng phân khoáng này tương đương 285 kg N + 135 kg P205 + 285 kg K20/héc-ta.

Với liều lượng bón phân như trên, cây tiêu vừa có năng suất cao và hiệu quả kinh tế cao, không gây ô nhiễm môi trường để giúp hạt tiêu Việt Nam dễ dàng đạt tiêu chuẩn GlobalGAP, hội nhập được với thị trường khó tính. 
 
Thu hoạch, sơ chế và bảo quản sa nhân
 
Cây sa nhân từ lâu đã được biết đến là một vị thuốc cổ truyền trong y học dân tộc. Sản phẩm từ sa nhân có giá trị xuất khẩu cao đem lại lợi ích đáng kể cho người trồng. Tuy nhiên, đa số bà con chưa nắm được kỹ thuật thu hoạch, sơ chế, bảo quản sa nhân nên chất lượng dược liệu và giá trị kinh tế của sa nhân bị giảm đáng kể. 
Thu hoạch

Thường từ năm thứ ba cây sa nhân bắt đầu ra quả, bà con có thể thu hoạch trong 5 năm liền. Để đảm bảo thu hái sa nhân đúng lúc, hàng ngày phải thường xuyên kiểm tra độ chín của quả, khi vừa chín phải thu hái ngay để không làm giảm phẩm chất quả. Quả vừa chín có màu đỏ tía thì phải hái ngay là tốt nhất. Loại quả này gọi là sa nhân hạt cau, đảm bảo phẩm chất 100%. Sa nhân hạt cau cho hạt to mẩy, màu nâu bóp thấy rắn chắc, có vị cay nồng. Nếu thu hái sớm thì hạt sa nhân còn non chỉ đạt khoảng 60 - 70% phẩm chất. Khi quả vừa chín, bà con dùng kéo hoặc dao để cắt chùm quả. Nếu sa nhân mọc quá rậm thì tỉa bớt những cây đã già để đảm bảo mật độ thu hoạch cho vụ sau.
Sấy khô

Bà con dùng gạch hay đá xây dựng lò sấy, rộng khoảng 1,3 m, cao 1m, phía trên làm giàn để sấy. Mỗi lần sấy, bà con cho khoảng 30 - 40 kg sa nhân lên giàn sấy, dùng than đun nóng phía dưới. Sau 12 giờ sấy, bà con đảo ở trên xuống phía dưới và tiếp tục sấy 12 giờ nữa. Lúc quả khô khoảng 80% thì bà con cho vào bao tải đem đi ủ trong 12 giờ, sau đó lại đem sấy, đến khi dùng tay bóp thì hạt vụn ra là được. Cứ 10 kg quả tươi sẽ thu được 1,5 – 1,8 kg quả khô. Quả sa nhân đảm bảo chất lượng là quả phải to, chắc, nhân màu nâu tươi, mùi thơm đặc trưng, không bị vỡ nát. 
Bảo quản 

Sau khi quả sa nhân được sấy khô, bà con cho vào thùng gỗ, trong thùng có lót giấy chống ẩm. Mỗi thùng cho 25 kg sa nhân và phải bịt kín không cho không khí lọt vào. 

Ngoài việc quản lý, chăm sóc cây sa nhân tự nhiên, bà con cũng có thể trồng cây sa nhân thâm canh dưới tán cây của những vườn cây ăn quả lâu năm hoặc dưới tán rừng không những mang lại sản lượng sa nhân cao hơn mà còn giúp nông dân tăng thu nhập, góp phần phát triển mô hình vườn hộ, nhất là ở những vùng miền núi.

HÀNG THẬT - HÀNG GIẢ

Lâm Đồng: Thu giữ 18 tấn phân bón giả

Trung tuần tháng 10/2014, Chi cục quản lý thị trường tỉnh Lâm Đồng đã phát hiện, thu giữ lô hàng phân bón giả, phân bón không rõ nguồn gốc với số lượng lớn. Đây là lô hàng do Công ty TNHH Ngọc Tấn Phát ở đường Huỳnh Văn Nghệ, phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai sản xuất và được  vận chuyển từ tỉnh Đồng Nai đến tỉnh Lâm Đồng tiêu thụ. Qua kiểm tra, Công ty Ngọc Tấn Phát không có giấy phép sản xuất phân bón do cơ quan có thẩm quyền cấp. Đồng thời, các hàm lượng các chất dinh dưỡng công bố trên nhãn sản phẩm thấp hơn so với thực tế và thấp hơn nhiều lần so với quy định.

Ngoài ra, trong số 18 tấn phân bón bị thu giữ của Công ty Ngọc Tấn Phát còn có 1,5 tấn phân sunfate ma nhê, công ty mới chỉ xuất trình hóa đơn bán hàng mà chưa có hóa đơn mua hàng để chứng minh nguồn gốc của số hàng này. 
 
Lào Cai: Tiêu hủy gần 1.000 phụ tùng xe   máy giả

Đội Quản lý thị trường số 1 - Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Lào Cai cho biết, đơn vị đã phối hợp với các cơ quan chức năng của thành phố Lào Cai tiến hành tiêu hủy gần 1.000 phụ tùng xe máy là hàng giả nhãn hiệu Honda của Công ty Honda Việt Nam và Công ty TNHH xích KMC Việt Nam. Trong đó, 400 chiếc xích cam xe máy KMC, 198 bộ ổ khóa xe máy, 200 bộ dây đồng hồ tốc độ, 198 chiếc xăm xe máy. Tổng trị giá số hàng phải tiêu hủy là 350 triệu đồng.

Đây là đợt tiêu hủy có số lượng lớn về phụ tùng xe máy giả, làm nhái các thương hiệu có uy tín do Đội Quản lý thị trường số 1 thu giữ thời gian qua. Để nâng cao công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại trên địa bàn thành phố trong những tháng cuối năm 2014, đơn vị sẽ tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức, hiểu biết và trách nhiệm cho thương nhân và người tiêu dùng. Tăng cường thực hiện kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, đầu cơ, găm hàng, nâng giá bất hợp lý, các hành vi kinh doanh không đúng, không đầy đủ các điều kiện trong kinh doanh, hành vi gian lận trong đo lường, bán không đúng giá niêm yết… Đồng thời, cử cán bộ tăng cường nắm tình hình, nhằm phát hiện kịp thời và ngăn chặn, xử lý các đối tượng buôn lậu.
 
Nghệ An: Tiêu hủy hơn 100 loại hàng hóa vi phạm

Chi cục quản lý thị trường tỉnh Nghệ An đã tiến hành tiêu hủy lượng lớn hàng hóa bắt được thời gian qua. Trong đó chủ yếu là các loại hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng quá hạn sử dụng, hàng cấm, hàng thực phẩm không rõ nguồn gốc, đồ chơi trẻ em không có dấu CR, mũ bảo hiểm cho người đi xe máy không có dấu CR, sách giáo khoa in lậu, mỹ phẩm, rượu ngoại, thuốc lá nhập lậu… Số hàng tiêu hủy đợt này gồm 105 loại hàng hóa. Thông qua hoạt động này nhằm tuyên truyền ý thức cho người tiêu dùng khi mua sản phẩm. Đồng thời nhằm củng cố, thắt chặt công việc quản lý góp phần làm sạch và ổn định thị trường hàng hoá cuối năm; góp phần nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân cùng chung sức đẩy lùi nạn hàng giả, hàng kém chất lượng, bảo vệ sức khỏe và lợi ích của người tiêu dùng.

Trong thời gian tới, Chi cục quản lý thị trường sẽ tiếp tục tăng cường kiểm tra, kiểm soát các mặt hàng lưu thông trên thị trường, nhằm đảm bảo an toàn và bảo vệ lợi ích cho người tiêu dùng và kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

(Thông tin do Báo Công Thương và Cổng Thông tin Điện tử Ủy ban Dân tộc phối hợp thực hiện)