Thông tin giá cả thị trường tuần từ 17/11/2014 đến 21/11/2014

09:38 AM 07/11/2014 |   Lượt xem: 1930 |   In bài viết | 

TIÊU ĐIỂM


Đổi mới phương thức kinh doanh nông sản theo hướng bền vững

Theo Cục Bảo vệ Thực vật, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) hiện nước ta có 147 loại rau quả đang xuất khẩu đi châu Âu - nơi có tiêu chuẩn về thực phẩm khắt khe với sản lượng 150.000 tấn/năm. Nhưng ở trong nước người tiêu dùng lại chưa thật sự tin tưởng về chất lượng nông sản, thực phẩm. Vậy có cách nào để kinh doanh nông sản theo hướng hiệu quả, bền vững?
Cần sản xuất an toàn từ nuôi trồng đến tiêu thụ

Theo Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản - Bộ NN&PTNT, mặc dù kết quả giám sát cho thấy phần lớn nông sản trên thị trường thời gian qua cho thấy chỉ có 5 - 7% mẫu rau vượt ngưỡng thuốc bảo vệ thực vật, 2% mẫu thịt vượt ngưỡng kháng sinh, nhưng người tiêu dùng vẫn chưa tin tưởng các sản phẩm do các cơ quan chức năng công bố. Muốn tạo dựng uy tín, tăng tính cạnh tranh của nông sản Việt trên thị trường cả trong và ngoài nước quan trọng là phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất, cung ứng sản phẩm nông sản theo chuỗi an toàn thực phẩm. Thực tế, khi thực hiện mô hình sản xuất an toàn, bà con còn gặp nhiều khó khăn như: Cơ sở vật chất kém, hạn chế kiến thức công nghệ sơ chế, xử lý, bao gói và bảo quản, nhiều mô hình sản xuất sản phẩm nông sản an toàn còn đơn lẻ. Do đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho người sản xuất, kinh doanh có vốn vay ưu đãi; đào tạo, tập huấn cho các cơ sở, tập trung các hộ vào vùng quy hoạch để phát triển lâu dài.

Bên cạnh đó nông sản sạch đang gặp trở ngại khó bán vì thiếu kênh tiêu thụ riêng để bán được giá cao hơn và không bị đánh đồng “cá mè một lứa” trên thị trường. Chia sẻ về kinh nghiệm xây dựng các mô hình điểm sản xuất và tiêu thụ nông sản thực phẩm an toàn theo chuỗi, ông Nguyễn Văn Doăng - Điều phối viên Dự án Xây dựng và Kiểm soát chất lượng nông sản thực phẩm cho rằng: Cần tổ chức thực hiện chuỗi nông sản với hoạt động được thiết kế chuỗi, trong đó, ưu tiên sản phẩm chủ lực của địa phương; liên kết giữa cơ sở sản xuất và thu gom tiêu thụ là cốt lõi; gắn kết giữa các yếu tố kỹ thuật và thương mại... Ngoài ra, cần làm tốt việc sản xuất và quản lý chất lượng nông sản thực phẩm an toàn. Xây dựng mối liên kết giữa khu vực sản xuất và khu vực phân phối, bán lẻ trong các chuỗi. Thường xuyên tổ chức các hội chợ, hội nghị trong và ngoài nước để quảng bá sản phẩm. Xây dựng sàn giao dịch mua bán sản phẩm từ mô hình chuỗi, giới thiệu mạng lưới đặt hàng giao dịch mua bán. Để khích lệ những người nuôi trồng nông sản sạch, tạo cơ hội cho họ bán được giá cao các địa phương cần có khu chợ chuyên kinh doanh nông sản chất lượng cao. Muốn vào được chợ này bán, người bán phải có chứng nhận như VietGAP. Các sản phẩm này khi ra thị trường dán lô-gô để người tiêu dùng nhận diện. Chợ nông sản chất lượng cao sẽ là kênh tiêu thụ riêng giúp nông sản “sạch từ trang trại đến bàn ăn” và hỗ trợ những người nuôi trồng đi tiên phong.
Đổi mới phương thức kinh doanh nông sản

Tuy nhiên về lâu dài, để ngành sản xuất nông sản phát triển bền vững, Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải vừa đề nghị Bộ Công Thương kết hợp với Bộ NN&PTNT hoàn thiện đề án đổi mới phương thức kinh doanh nông sản nhằm phát triển theo hướng hiệu quả, bền vững.

Theo đó, các cơ quan quản lý có trách nhiệm bổ sung đánh giá vào đề án hiện trạng, tồn tại và hạn chế của các mô hình liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ trong lĩnh vực kinh doanh nông sản đã được triển khai trong giai đoạn 2010 - 2015. Trên cơ sở đó, hoạch định hướng đi mới cho nông sản đến năm 2020. Đồng thời, bổ sung cụ thể định hướng thị trường tiêu thụ nông sản nội địa cũng như xuất khẩu trong thời gian tới; kinh nghiệm thành công của một số nước trong việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ nông sản làm cơ sở đề xuất mô hình kinh doanh nông sản.

Thêm vào đó, đơn vị xây dựng đề án phải rà soát, xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước, doanh nghiệp trong việc triển khai nhiệm vụ của đề án. Ngoài ra, trong đề án, cơ quan quản lý cần chú ý lồng ghép các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án đã ban hành trong lĩnh vực phát triển thương mại vào thực hiện các nhiệm vụ của đề án nhằm bảo đảm mục tiêu. Sau khi đề án hoàn thành, các cơ quan này sẽ phải trình Chính phủ phê duyệt.

MUA GÌ


Khoai tây Đà Lạt khan hàng

Tại chợ Đà Lạt, khoai tây Đà Lạt loại 1 đang được bán với giá 35.000 đồng/kg, các loại xấu hơn có giá bán không dưới 28.000 đồng/kg, cao gấp 3 lần so với thời điểm cách đây hai tháng. Nguyên nhân là do vụ khoai trái mùa vừa qua tại Đà Lạt có mưa nhiều khiến nhà vườn không thể xuống giống, hoặc có trồng nhưng bị hư hỏng nặng. Khan hiếm hàng đã khiến giá khoai tây Đà Lạt tặng vọt. Trong khi đó, theo các tiểu thương tại chợ Đà Lạt, đây là thời điểm mặt hàng cùng loại của Trung Quốc được thương lái ồ ạt nhập về Đà Lạt với giá chỉ từ 5.000 - 6.000 đồng/kg. Sau khi phân loại và phết đất đỏ, nhiều thương lái giới thiệu đây là khoai tây Đà Lạt rồi xuất đi các tỉnh, thành phố tiêu thụ.

Đồng Tháp: Thu hoạch rộ tôm trứng

Hiện nay, huyện Tam Nông (Đồng Tháp) đang bước vào đợt cao điểm thu hoạch rộ tôm trứng, với diện tích trên 450 héc-ta tập trung ở các xã: Phú Thành A, Phú Thành B, thị trấn Tràm Chim. Tôm càng xanh nuôi sau 3 - 4 tháng trong mùa lũ, người nuôi bắt đầu thu hoạch chọn lựa tôm trứng bán trước. Việc thu tỉa tôm trứng nhằm tạo điều kiện cho tôm đực lớn nhanh, tăng kích cỡ tôm loại 1 nhiều và tiết kiệm được lượng thức ăn đáng kể. Hiện giá tôm trứng loại 50 - 60 con/kg thương lái thu mua từ 90.000 – 120.000 đồng/kg, giảm từ 15.000 – 20.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước. Với mức giá này người nuôi không có lãi, vì theo bà con ở vùng nuôi chuyên canh tôm càng xanh của huyện, chi phí đầu vào năm nay tăng khoảng 10% so với những năm trước.

Đồng bằng sông Cửu Long: Thủy sản nuôi mùa lũ tăng giá

Đến nay, nông dân các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nuôi thủy sản trong mùa lũ đã đến lúc thu hoạch. Năm nay giá các mặt hàng thủy sản đều tăng từ 5 - 8%, nguyên nhân do nguồn nước lũ kém, dẫn đến ít người thả nuôi nên nguồn cung luôn thiếu. Cụ thể thương lái ở Đồng Tháp, An Giang và TP. Cần Thơ đến tận nơi thu mua cá lóc cỡ 0,7 - 0,8kg/con với giá dao động 34.000 - 35.000 đồng/kg, giá lươn cỡ 250 - 300 gam/con từ 150.000 - 160.000 đồng/kg, giá cá tra thương phẩm từ 24.000 - 24.200 đồng/kg. Với giá bán như hiện nay, bà con đều thu lãi cao.

Bà Rịa – Vũng Tàu: Nhãn quế lãi cao

Tại xã Xuyên Mộc, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, năm nay, dù thời tiết không thuận lợi do khô hạn, thiếu nước tưới nên năng suất các vườn nhãn thấp hơn. Tuy nhiên, do giá tương đối ổn định ở mức 12.000 đồng/kg nên nhà vườn thu lãi tốt từ vụ thu hoạch chính trong năm. Năng suất nhãn quế bình quân hiện nay đạt khoảng 4 tấn/100 gốc. Nhãn quế chỉ chịu đất ở xã Xuyên Mộc, còn trồng các nơi khác năng suất lẫn chất lượng đều không bằng. Nhãn ở đây có vị ngọt ngon, thơm nhẹ mùi quế và dùng xong có hậu thanh dịu nơi đầu lưỡi nên rất được thị trường ưa chuộng.

Đồng Nai: Ca cao được mùa, giá tăng

Theo bà con các huyện Định Quán, Tân Phú, Thống Nhất tỉnh Đồng Nai, hiện giá ca cao tươi bán tại vườn đạt hơn 5.000 đồng/kg, hạt khô có giá 56.000 đồng/kg, tăng khoảng 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Hiện nay, một số doanh nghiệp và Trung tâm ứng dụng công nghệ sinh học Đồng Nai đang triển khai đề tài mô hình chuỗi liên kết sản xuất và chế biến ca cao chất lượng. Theo đó, giai đoạn đầu doanh nghiệp sẽ xây dựng mô hình thí điểm trồng ca cao năng suất với vườn cây giống đầu dòng để tạo ra giống tốt, năng suất cao từ đó nhân rộng ra cho nông dân. Công ty TNHH Ca cao Trọng Đức sẽ ký kết, chuyển giao cho các hợp tác xã máy móc thiết bị và công nghệ sơ chế trái ca cao, cung cấp giống ca cao, phân bón và bao tiêu sản phẩm cho nông dân với giá cao hơn từ 500 - 1.000 đồng/kg so với mặt bằng thu mua chung của nông dân.

Giá phân bón tại một số tỉnh trong tuần

Thị trường

Chủng loại

ĐVT

Đơn giá (đồng)

Đồng Tháp

Phân Urê Phú Mỹ

kg

8.100

Phân DAP TQ hạt xanh

kg

12.700

Phân NPK Việt Nhật

kg

10.300

Tây Ninh

Thuốc BVTV Basa

Chai

43.000

Phân Urê Phú Mỹ

Bao

410.000

Phân DAP 6-46 xanh

Bao

630.000

Hậu Giang

Phân Urê

kg

8.800

Phân DAP

kg

12.200

Bình Dương

Phân Urê Phú Mỹ

kg

8.800

Phân DAP TQ

kg

11.500

Bạc Liêu

Phân Urê Phú Mỹ (50 kg/bao)

Bao

405.000

Phân DAP TQ (50 kg/bao)

Bao

625.000


BÁN GÌ


Nhãn đã chính thức được cấp mã số vào thị trường Mỹ

Hiện đã có 3 vùng trồng nhãn ở Đồng bằng sông Cửu Long được cấp mã vùng. Chỉ cần thống nhất mẫu bao bì đóng gói để chiếu xạ, những lô nhãn đầu tiên có xuất xứ từ Việt Nam sẽ có mặt ở thị trường Mỹ. Tuy nhiên, chưa tính chi phí nhân công thu hái, đóng gói, chiếu xạ, tiền vận chuyển một container nhãn sang Mỹ đã lên đến 170 triệu đồng. Chi phí vận chuyển quá cao đã khiến nhiều doanh nghiệp nản lòng. Đây cũng là lý do mà số lượng thanh long và chôm chôm nước ta xuất khẩu sang Mỹ khá thấp dù đã được cấp phép từ nhiều năm qua.

Thống kê của Cục Bảo vệ thực vật cho thấy, 6 tháng đầu năm 2014, xuất khẩu thanh long vào thị trường Mỹ chỉ khoảng 1.000 tấn, còn chôm chôm chỉ khoảng 180 tấn. Con số khá khiêm tốn so với sản lượng trong nước. Tình trạng tương tự hoàn toàn có thể xảy ra đối với mặt hàng nhãn xuất khẩu sang Mỹ.

Xuất khẩu đường ăn sang Trung Quốc gặp khó

Bộ Công Thương cho biết, việc xuất khẩu đường sang Trung Quốc hiện đang gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân do phía Trung Quốc kiểm soát chặt chẽ, một số doanh nghiệp thương mại hiện đang buộc phải bán với giá thấp để giảm chi phí lưu kho. Giá đường xuất qua Trung Quốc tại Lào Cai từ tháng 9 - 10 chỉ ở mức 11.600 đồng/kg. Trên thực tế, mặt hàng đường hiện nay chưa phải là mặt hàng nông sản xuất khẩu chính của nước ta. Tuy nhiên, khi sản lượng đường trong nước ngày càng nhiều, cộng với đường lậu tràn vào và đường nhập khẩu theo thỏa thuận với Tổ chức Thương mại Thế giới, khiến cung vượt cầu, thì xuất khẩu đường ngày càng trở thành một đầu ra quan trọng cho ngành mía đường. Trong đó, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu chính do chi phí vận chuyển thấp.
Ảnh: Đường tồn kho tại các doanh nghiệp

Đồng bằng sông Cửu Long: Xuất khẩu gạo chất lượng cao tăng


Theo Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, từ đầu năm đến nay, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã xuất khẩu trên 2,7 triệu tấn gạo chất lượng cao, chiếm 52% tổng lượng gạo đã xuất khẩu. Thời gian qua, các tỉnh ĐBSCL đã làm tốt công tác quảng bá, tiếp thị nên khách hàng tại châu Âu, Bắc Mỹ, châu Á, châu Phi đặt mua gạo chất lượng cao của ĐBSCL tăng cao. Mặt khác, chất lượng gạo phẩm cấp cao của vùng ngày càng được cải thiện so với gạo cùng phẩm cấp của một số nước lân cận, trong khi giá bán lại thấp hơn nên được khách hàng nước ngoài ưa chuộng. Đạt được kết quả này phải kể đến đóng góp của Viện lúa ĐBSCL đã nỗ lực nâng cao chất lượng lúa giống trên cơ sở lai tạo, tuyển chọn thêm hàng chục loại giống có phẩm chất tốt, cho năng suất cao, phù hợp với thổ nhưỡng từng vùng sinh thái, đạt chuẩn xuất khẩu.

Cá ngừ xuất khẩu sang Mỹ hồi phục

Thời gian gần đây, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang thị trường Mỹ đã hồi phục. Tuy nhiên, vừa qua đã có một số lô hàng cá ngừ xuất qua Mỹ bị trả về do nhiễm vi sinh. Chủ yếu các lô hàng này đều được thương lái thu mua tại chợ thủy sản Nam Trung Bộ, cảng cá Hòn Rớ. Nguyên nhân là tại cảng cá Hòn Rớ - xã Phước Đồng, TP. Nha Trang hiện không có hệ thống nước sạch để rã đông cá ngừ khi cập cảng. Các vựa thu mua cá phải dùng nước bơm dưới cảng lên để xử lý khiến cá bị nhiễm vi sinh... Việc cá ngừ xuất qua Mỹ bị trả về do nhiễm vi sinh E.Coli và Salmonella đối với các chủ vựa cá ở chợ thủy sản Nam Trung Bộ là chuyện không hiếm. Tuy nhiên, việc công bố bị nhiễm vi sinh khiến các công ty xuất khẩu mất uy tín với đối tác, không được ứng trước 50% giá trị lô hàng, rất thiệt thòi cho bà con ngư dân.


Đồng Tháp: Xoài nghịch vụ xuất sang Hàn Quốc

Hợp tác xã Xoài Mỹ Xương cho biết, năm 2014, trái xoài tươi của hợp tác xã được xuất khẩu sang Hàn Quốc và sắp tới là Nhật Bản. Các công ty đặt mua xoài của hợp tác xã khoảng 100 tấn/tháng, nhưng hiện hợp tác xã chưa đáp ứng đủ nhu cầu vì xoài mùa nghịch rất ít. Hộ dân sản xuất xoài cho trái mùa nghịch chưa được 30%. Diện tích trồng xoài của toàn tỉnh Đồng Tháp hiện có gần 10.000 héc-ta với hai giống chủ lực là xoài cát Chu và cát Hòa Lộc.

Năm nay, vụ xoài mùa nghịch cho thu hoạch kéo dài từ tháng 9 đến tháng 11 và được giá nên mức lãi hơn 200 triệu đồng/héc-ta (xoài cát Chu), hơn 500 triệu đồng/héc-ta với xoài Hòa Lộc. Ngoài việc cho xoài ra trái mùa nghịch, bà con còn sử dụng phương pháp bao trái. Ưu điểm của xoài bao trái là sử dụng ít phân, thuốc, công chăm sóc đơn giản; không gây ô nhiễm môi trường. Thời điểm này, giá xoài dao động từ 18.000 - 20.000 đồng/kg, cao hơn 5.000 - 6.000 đồng/kg so với xoài chưa bao trái. Hiện tỉnh đang tăng quy mô sản xuất, nhân rộng mô hình sản xuất xoài, đặc biệt là xoài mùa nghịch.

LƯU Ý CẢNH BÁO


Bình Định: Muối tồn đọng nhiều, giá thấp

Vụ muối năm 2014, nhờ thời tiết diễn biến khá thuận lợi nên diêm dân được mùa lớn, sản lượng đạt gần 30.000 tấn. Tuy nhiên, điệp khúc “được mùa, mất giá” trong sản xuất muối vẫn tái diễn, khiến đời sống của diêm dân gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt, lượng muối năm nay tồn đọng nhiều khiến bà con Nam Trung Bộ lao đao.

Thương lái ép giá

Tuy đã hết vụ sản xuất muối, nhưng thời điểm này, tại các cánh đồng muối trên địa bàn các xã Cát Minh, Cát Khánh (huyện Phù Cát); Mỹ Thành, Mỹ Cát, Mỹ Chánh (huyện Phù Mỹ), Phước Thuận (huyện Tuy Phước) sản lượng muối tồn đọng khá lớn do giá muối thấp và đầu ra khó khăn. Theo diêm dân ở các địa phương, trong năm nay giá muối thường xuyên ở mức thấp, thời điểm cuối vụ giá muối sản xuất theo phương pháp thủ công ở mức từ 800 - 900 đồng/kg; muối sạch sản xuất theo phương pháp trải bạt từ 1.100 - 1.200 đồng/kg; giảm hơn 30% so với cùng kỳ năm trước. Mỗi vụ muối chỉ sản xuất từ 4 - 5 tháng mùa nắng, nên thu nhập không đủ chi phí cho sinh hoạt hàng ngày. Đáng lo ngại hơn là tình trạng thương lái không thu mua và tìm đủ mọi cách để ép giá diêm dân.

Theo Công ty CP Muối và Thương mại miền Trung, có nhiều nguyên nhân khiến giá muối năm nay thấp hơn mọi năm. Thứ nhất, hầu hết các tỉnh trong khu vực từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận đều trúng mùa muối, trong khi các nhà máy chế biến trong nước không tiêu thụ hết lượng muối sản xuất của diêm dân. Thứ hai, chất lượng muối sản xuất trong tỉnh còn khá thấp. Hiện nay, phần lớn diêm dân trong tỉnh vẫn sản xuất theo phương pháp thủ công, muối lẫn tạp chất nhiều, không thể sử dụng trong chế biến công nghiệp. Theo thống kê sơ bộ, trong tổng số 214 héc-ta ruộng muối trên địa bàn Bình Định, hiện mới chỉ có 13,65 héc-ta sản xuất bằng phương pháp trải bạt, còn lại trên 200 héc-ta sản xuất bằng phương pháp thủ công. Thứ ba, việc tiêu thụ muối chủ yếu qua các thương lái nên thường xuyên xảy ra tình trạng, ép giá, nhất là vào những thời điểm thu hoạch, sản lượng tăng.

Cần có biện pháp hỗ trợ diêm dân

Theo số liệu của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bình Định, vụ muối năm 2014, toàn tỉnh thu hoạch khoảng 30.000 tấn, tăng 80% so với năm 2013. Hơn một tháng sau khi kết thúc mùa vụ, chỉ 22.300 tấn được tiêu thụ. Nếu tính thêm phần dự trữ (cũng là một dạng tồn kho) ở 2 đầu mối kinh doanh chế biến muối là Công ty CP Muối và Thực phẩm Bình Định, Chi nhánh Công ty CP Muối và Thương mại miền Trung, tổng lượng muối tồn kho lên tới hơn 11.000 tấn.

Để giúp diêm dân tháo gỡ khó khăn, vừa qua, ngành nông nghiệp tỉnh đã kiến nghị Bộ NN&PTNT đề xuất Chính phủ có chính sách thu mua tạm trữ muối để ổn định giá. Đồng thời, thực hiện chủ trương hỗ trợ vốn vay cho diêm dân phát triển sản xuất theo phương pháp trải bạt với lãi suất ưu đãi. Các bộ, ngành chức năng nghiên cứu hỗ trợ đầu tư nâng cấp, cải tạo cơ sở hạ tầng vùng muối tại các xã: Cát Minh, Cát Khánh (Phù Cát); Mỹ Thành, Mỹ Cát, Mỹ Chánh (Phù Mỹ) và đồng muối Diêm Vân, xã Phước Thuận (Tuy Phước). Đẩy mạnh thực hiện các chương trình khuyến diêm, chuyển giao công nghệ sản xuất muối bằng phương pháp trải bạt cho các hộ nghèo.

Bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước, nhằm tạo ổn định về giá trong việc mua nguyên liệu muối, đã đến lúc cần tạo sự liên kết giữa diêm dân và các doanh nghiệp mua, chế biến muối để sản phẩm có nơi tiêu thụ ổn định. Các cơ quan chức năng, chính quyền các địa phương cũng cần có sự phối hợp, vận động các đơn vị chế biến muối trên địa bàn tỉnh ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho diêm dân theo tinh thần của Quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ; tạo mối liên kết hài hòa giữa người sản xuất với doanh nghiệp chế biến, tránh tái diễn điệp khúc “được mùa, mất giá” hay “mất mùa, được giá” như đã từng xảy ra.

Box: Hiện nhiều ngư dân đã chuyển sang kỹ thuật làm muối sạch bằng phương pháp trải bạt trên ô kết tinh. Phương pháp làm muối trải bạt khá đơn giản, dễ làm, không khác nhiều so với cách làm muối truyền thống. Nhờ ô chứa được trải bạt, nên muối kết tinh gần như không lẫn tạp chất, đất cát, hạt muối trắng hơn. Đồng thời, diêm dân không mất thời gian đầm đất, lượng muối hao hụt ít, giá bán cũng cao hơn so với muối truyền thống từ 30 - 40%.

NHẬN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG


Khánh Vĩnh (Khánh Hòa): Cần thay đổi thói quen sản xuất để hạn chế rủi ro do thời tiết

Hiện nay, trên địa bàn Khánh Vĩnh, các loại cây ăn quả như: bưởi da xanh, mít nghệ, sầu riêng cho giá trị kinh tế khá. Chính vì vậy, địa phương cần khuyến khích người dân tìm kiếm những vùng đất phù hợp để đầu tư phát triển, nhân rộng những loại cây trồng có hiệu quả kinh tế nhằm nâng cao thu nhập.

Là huyện miền núi, 90% thu nhập của nông dân huyện Khánh Vĩnh (tỉnh Khánh Hòa) dựa vào nương rẫy. Năm nay, do thời tiết bất thường nên cả vụ đông xuân và hè thu đều mất mùa. Theo thống kê, toàn huyện Khánh Vĩnh có 481 héc-ta cây trồng bị thiệt hại khoảng 70% (chủ yếu là lúa, bắp, đậu xanh, mía, mì); 493 héc-ta cây trồng bị ảnh hưởng nắng hạn, thiệt hại từ 30 đến 70%. Tổng sản lượng lương thực đạt 3.309 tấn, chỉ bằng 51% kế hoạch và giảm 36% so cùng kỳ... Để khắc phục khó khăn do thiên tai, từ đầu năm đến nay, UBND huyện Khánh Vĩnh đã cấp gạo cứu đói cho 2.065 hộ bị thiệt hại do mất mùa vì nắng hạn với 5.655 nhân khẩu (mỗi khẩu 15 ki-lô-gam gạo).

Trong tình hình hiện nay, việc hỗ trợ lương thực cho đồng bào là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp tình thế. Về lâu dài, chính quyền địa phương cần khuyến cáo người dân thay đổi thói quen sản xuất. Những diện tích thường xuyên gieo trỉa bắp, trồng mì đã bạc màu, thoái hóa cần chuyển sang trồng cây lấy gỗ hoặc các loại cây có khả năng chịu hạn; vùng đất có nước bơm tưới có thể trồng hoa màu phụ ngắn ngày hoặc cây ăn quả đặc sản; vận động người dân phát triển chăn nuôi để có thực phẩm cải thiện đời sống, có thu nhập... Về sản xuất lương thực, song song với nâng cấp các công trình thủy lợi, kiên cố hóa hệ thống tưới tiêu để sản xuất lúa nước, những cánh đồng thường khô hạn nên đầu tư các trạm bơm để ứng phó khi nắng hạn. Vừa qua, UBND huyện đã kiến nghị tỉnh đầu tư xây dựng trạm bơm Ba Cẳng (xã Khánh Hiệp). Hiện nay, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Khánh Hòa đã tiến hành khảo sát thực tế. Khi hoàn thành, công trình này sẽ đảm bảo nước tưới ổn định cho 120 héc-ta lúa nước trong năm của hai xã Khánh Hiệp và Khánh Bình.

Hà Giang: Xây dựng mô hình phát triển sản phẩm thành hàng hóa

Phương Thiện là xã nằm trong dự án vành đai thực phẩm hàng hóa của thành phố Hà Giang, do đó địa phương đã xác định chăn nuôi lợn tập trung là một trong những hướng đi chính.

Nếu như trước đây, chăn nuôi lợn chỉ dừng lại ở hộ gia đình thì nay đã hình thành nên tổ hợp tác xã (HTX), tạo sự gắn kết trong quá trình sản xuất. Đặc biệt, năm 2013, tổ HTX chăn nuôi tại nhà được thành lập ở thôn Tiến Thắng đã thu hút 14 hộ cùng nuôi 20 con lợn/hộ. Được hỗ trợ con giống, xi măng làm chuồng nên các hộ gia đình đều nhiệt tình tham gia và mang lại hiệu quả cao, góp phần đổi thay đáng kể mức sống của người dân.

Vào đầu tháng 9/2014, sau khi thành phố Hà Giang có chủ trương hỗ trợ gà giống DABACO để làm mô hình nhân rộng, xã Phương Thiện đã mạnh dạn triển khai thực hiện theo hình thức vay vốn để mua thức ăn và hoàn trả vốn sau khi xuất bán. Hiện mô hình đang có 2.000 con gà, chuồng trại được xây dựng tương đối quy mô với khu chăn nuôi rộng 1.200 mét vuông và hệ thống đèn chiếu sáng, đèn sưởi ấm khá hoàn chỉnh. Mô hình nuôi gà và nuôi lợn đã tập hợp được 3 gia đình cùng tham gia thực hiện. Ngoài ra, dựa trên tình hình phát triển kinh tế ở các hộ gia đình, địa phương đã triển khai mô hình trồng nấm tập trung và lựa chọn loại cây này vào trồng vụ đông để làm cơ sở nhân rộng cho bà con trong xã gồm các loại nấm sò, mộc nhĩ... Với mô hình này đã bước đầu tạo sản phẩm tương đối lớn cung cấp ra thị trường. Vừa qua, đã có khoảng 500 bịch cho thu hoạch, trừ chi phí mỗi bịch lãi từ 10.000 – 15.000 đồng.

Cùng với việc hình thành các mô hình sản xuất tập trung, thu hút các tổ, đội, nhóm sở thích tham gia, xã Phương Thiện cũng đặc biệt quan tâm đến liên kết ba nhà (nhà khoa học – nhà doanh nghiệp – nhà nông) để tiêu thụ nông sản. Những cách làm này đang là cơ sở vững chắc trong việc thúc đẩy kinh tế, góp phần nâng cao đời sống người dân.

CHUYỂN ĐỘNG THỊ TRƯỜNG


Điện Biên: Đẩy mạnh đưa hàng Việt lên vùng biên giới

Tháng 10 vừa qua, Trung tâm Xúc tiến thương mại tỉnh Điện Biên đã tổ chức phiên chợ "Đưa hàng Việt về miền núi" tại huyện Nậm Pồ. Để phiên chợ thu hút người dân tham gia, trước đó, Trung tâm Xúc tiến thương mại tỉnh và chính quyền địa phương đã khảo sát, bố trí địa điểm rất thuận lợi, đó là tổ chức ngay khu vực Đồn Biên phòng xã Nà Hỳ. Với chủ trương "Đưa hàng Việt về miền núi" nên 100% chủng loại hàng hóa các doanh nghiệp trưng bày đều là hàng nội, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Khẩu hiệu "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" treo ở khắp chợ và tại mỗi gian hàng.

Phiên chợ có sự tham gia của 7 doanh nghiệp trong tỉnh và một số doanh nghiệp ngoại tỉnh, với quy mô 30 gian hàng, cung cấp đầy đủ các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ nhu cầu đời sống và sản xuất của đồng bào vùng cao. Từ lương thực, thực phẩm, đồ hộp, nước mắm, đường, sữa, mỳ ăn liền, chăn màn, quần áo, giày dép, đồ dùng gia đình đến nông cụ phục vụ trồng trọt, thức ăn chăn nuôi, giống nông nghiệp và dịch vụ viễn thông. Mặt hàng phong phú, đa dạng, đảm bảo chất lượng, giá cả hợp lý, phù hợp nhu cầu mua sắm nên phiên chợ thu hút đông đảo người dân khu vực các xã Nà Hỳ, Na Cô Sa... Mặt hàng có sức tiêu thụ mạnh nhất là quần áo thu đông và chăn màn, giá cả đa dạng từ 50.000 - 200.000 đồng/chiếc.

Tại khu vực vùng cao, biên giới, đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống thường có không ít hàng trôi nổi, không có nguồn gốc rõ ràng, chất lượng kém, không đảm bảo vệ sinh, an toàn. Chính vì vậy, khi tổ chức mỗi phiên chợ, Trung tâm Xúc tiến thương mại tỉnh Điện Biên đã phối hợp với các doanh nghiệp tham gia chuẩn bị lượng hàng đa dạng, đủ chủng loại, mẫu mã, giá thành hợp lý. Đây cũng là cơ hội giúp các doanh nghiệp, thương nhân trong tỉnh mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Thành phố Phan Thiết: Hàng Việt dần chiếm lĩnh thị trường

Bên cạnh sự vượt trội về tỷ lệ hàng hóa tại các kênh phân phối hiện đại này, hàng Việt cũng đã lan toả tới các cửa hàng bán lẻ, các chợ truyền thống tại vùng nông thôn.

Trên kệ hàng của siêu thị trên địa bàn TP. Phan Thiết (Bình Thuận), phần lớn là hàng hóa do doanh nghiệp trong nước sản xuất. Hiện có trên 90% hàng hóa bày bán tại Siêu thị Co.op Mart Phan Thiết được sản xuất trong nước. Không chỉ ở những dòng hàng phổ thông mà hàng Việt đã cạnh tranh ngay cả ở phân khúc hàng cao cấp với chất lượng không thua kém gì hàng ngoại nhập, giá thành cạnh tranh. Có thể kể đến hàng loạt thương hiệu hàng Việt được người tiêu dùng tin tưởng như: may Việt Tiến, Nhà Bè; giày dép Biti’s, Vina giày; bánh kẹo Kinh Đô, Bibica; cà phê Trung Nguyên; sữa Vinamilk; đường Biên Hòa; thực phẩm chế biến Vissan... Nhiều người được hỏi đều cho biết họ tin cậy và ưa thích hàng tiêu dùng Việt Nam vì có những ưu điểm: Xuất xứ và hạn sử dụng rõ ràng; giá cả phù hợp; bao bì ngày càng đẹp; chất lượng khá ổn định; hợp khẩu vị và thói quen sử dụng của người Việt.

Tuy nhiên, theo đánh giá của chính quyền thành phố Phan Thiết, bên cạnh những hiệu quả tích cực, vẫn còn nhiều việc phải làm để hàng Việt lan tỏa sâu hơn nữa vào đời sống tiêu dùng của người dân. Đó là một số cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp chưa quan tâm đúng mức cuộc vận động; các giải pháp khuyến khích người dân sử dụng hàng Việt còn chung chung, thiếu đồng bộ, vẫn có doanh nghiệp trong nước chưa tích cực nâng cao chất lượng và đưa sản phẩm ra thị trường. Chất lượng sản phẩm thiếu tính ổn định, cùng với tình trạng hàng giả… khiến một bộ phận người tiêu dùng chưa tin tưởng vào hàng Việt và vẫn còn tâm lý sính ngoại.

HÀNG VIỆT


Điện Biên: Phát triển thương hiệu cà phê Mường Ang

Những năm qua, cây cà phê đã góp phần làm thay đổi diện mạo mới cho toàn huyện, đưa Mường Ảng trở thành thủ phủ cà phê của tỉnh Điện Biên, giúp bà con xóa đói, giảm nghèo. Việc xây dựng thương hiệu cà phê Mường Ảng đã và đang được các chính quyền và bà con Mường Ảng nỗ lực thực hiện.

Khi cây “mũi nhọn” thiếu bền vững

Xác định rõ tiềm năng, thế mạnh cũng như những đóng góp của cây cà phê đối với công cuộc phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo của địa phương. Trong những năm qua, huyện Mường Ảng đã thực hiện nhiều giải pháp để đẩy mạnh phát triển diện tích cà phê. Năm 2014 này, diện tích cà phê trồng mới cũng đạt khoảng 200 héc-ta. Đến thời điểm hiện tại, tổng diện tích cà phê toàn huyện đã đạt trên 3.300 héc-ta. Theo kế hoạch đến hết năm 2015, huyện Mường Ảng phấn đấu nâng diện tích cà phê lên khoảng 3.800 héc-ta và đến năm 2020 trên 4.200 héc-ta. Cà phê được trồng ở tất cả các xã, thị trấn trên địa bàn huyện, tập trung chủ yếu ở thị trấn Mường Ảng, xã Ẳng Cang, Ẳng Tở, Ẳng Nưa.

Tuy nhiên, việc phát triển cây cà phê thời gian qua mới chỉ quan tâm đến vùng nguyên liệu, chưa chú trọng đúng mức đến chất lượng sản phẩm và thị trường tiêu thụ. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào khâu chọn lựa giống, trồng, chăm sóc vườn cây, thu hoạch, chế biến, bảo quản, bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, chưa được người trồng cà phê quan tâm đúng mức. Việc thu hái chưa đảm bảo theo yêu cầu kỹ thuật nên ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Các cơ sở chế biến cà phê hiện nay trên địa bàn đều có quy mô nhỏ theo công nghệ chế biến ướt và không xử lý chất thải đúng quy trình, nhiều cơ sở chế biến chưa đầu tư máy sấy mà phơi trên nền sân bê tông. Ngoài ra, công tác quản lý có phần buông lỏng, công tác thông tin, giới thiệu, quảng bá sản phẩm chưa hiệu quả, chưa sâu rộng; liên doanh, liên kết, quản lý thị trường chưa đáp ứng yêu cầu nên việc tiêu thụ sản phẩm còn gặp nhiều khó khăn, tư thương ép giá, lượng hàng tồn còn lớn.
Xây dựng thương hiệu cà phê Mường Ảng

Không thể phủ nhận hiệu quả kinh tế cây cà phê đã mang lại cho người dân huyện Mường Ảng trong thời gian qua. Tuy nhiên, để cây cà phê phát triển bền vững, việc giải bài toán về thị trường tiêu thụ và giá cả đã và đang trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu. Hiện nay Hội Cà phê Mường Ảng đã gia nhập Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam. Thông qua hội sẽ liên kết các doanh nghiệp thu mua sản phẩm, giúp bà con yên tâm trồng cà phê mà không lo bị ép giá.

Mường Ảng còn đẩy mạnh tuyên truyền vận động bà con thực hiện các biện pháp kỹ thuật canh tác cà phê sạch; thực hiện cải tạo vườn cây hiện có thành vườn cà phê sạch. Đồng thời, vận động bà con chỉ thu hái quả chín từ 95% trở lên. Thí điểm khu vực trồng cà phê theo tiêu chuẩn quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến cà phê theo công nghệ tiên tiến, với công suất vừa phải, phù hợp với sản lượng cà phê tại các vùng nguyên liệu trên địa bàn huyện, đồng thời kết hợp sản xuất phân vi sinh từ phụ phẩm cà phê. Định hướng đến năm 2020, Mường Ảng phấn đấu xây dựng từ 1 - 2 nhà máy chế biến cà phê xuất khẩu; 75% diện tích cà phê được trồng cây che bóng, trong đó 35% diện tích được trồng các loại cây che bóng có giá trị kinh tế cao.

Theo kế hoạch, từ nay đến năm 2015 huyện sẽ tập trung xây dựng nhãn hiệu tập thể “cà phê Mường Ảng,” góp phần nâng cao vị thế và sức mạnh của sản phẩm trên thị trường và sức cạnh tranh của sản phẩm, gia tăng giá trị, uy tín của sản phẩm; quảng bá và giới thiệu cà phê Mường Ảng trên các phương tiện thông tin đại chúng, các hội chợ và một số ấn phẩm, tạp chí...

NHÀ NÔNG CẦN BIẾT


Bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây na

Cây na được trồng phổ biến ở Việt Nam, chủ yếu là các giống na dai, na bở. Chuyên đề DTTS & MN Báo Công Thương xin giới thiệu cho bà con quy trình bón phân NPK-S Lâm Thao để thu được năng suất và chất lượng quả na cao, đáp ứng trong nước và xuất khẩu.
Bón lót

Hố được đào trước khi trồng 2 - 3 tháng. Phân hữu cơ hoai mục thường bón 20 - 30 kg/hố, tương ứng 30 - 45 tấn/héc-ta. Bón 0,3 - 0,4 kg NPK-S 5.10.3-8/hố, tương ứng 500 - 600 kg/héc-ta. Nếu đất chua bón mỗi hố 0,5 kg vôi bột, tương ứng 750 kg/héc-ta. Tất cả trộn với đất mặt, bỏ vào hố ủ 2 - 3 tháng mới đặt bầu.

Bón phân thời kỳ kiến thiết cơ bản (1 - 3 năm tuổi)

Trong 1 - 3 năm đầu, hàng năm bón 4 đợt, mỗi đợt cách nhau 3 tháng, thường bón vào tháng 2 - 3, 5 - 6, 8 - 9, 10 - 11. Nếu trời không mưa cần tưới đủ ẩm. Bón cách gốc 40 - 50 cm theo 4 hốc đối xứng (Đông – Tây – Nam - Bắc) hoặc theo hình chiếu tán nếu cây đã lớn. Sử dụng phân NPK-S 12.5.10-14 để bón với liều lượng mỗi đợt đều bằng nhau như sau: Đối với cây na 1 tuổi thì bón 0,3 kg/cây/đợt hay 1,2 kg/cây/năm. Đối với cây na 2 - 3 tuổi thì bón 0,6 kg/cây/đợt hay 2,4 kg/cây/năm . Năm thứ 2 có thể kết hợp bón phân hữu cơ vào đợt bón thúc phân NPK-S 12.5.10-14 cuối năm, liều lượng khoảng 20 kg phân chuồng/cây.

Bón phân thời kỳ kinh doanh

Trong thời kỳ kinh doanh, mỗi năm thường bón 3 đợt: Trước ra hoa, vào tháng 2 – 3; Khi đã có quả non để nuôi cành, nuôi quả vào tháng 6 – 7; Sau khi thu quả kết hợp với vun gốc vào tháng 9 - 10. Sử dụng phân NPK-S 12.5.10-14 để bón với liều lượng mỗi đợt bằng nhau như sau:

- Đối với cây na 4 - 5 tuổi thì bón 1,5 kg/cây/đợt hay 4,5 kg/cây/năm (tương đương 2.250 kg/héc-ta/đợt và 6.750 kg/héc-ta/năm).

- Đối với cây na 6 - 7 tuổi thì bón 2,0 kg/cây/đợt hay 6,0 kg/cây/năm (tương đương 3.000 kg/héc-ta/đợt và 9.000 kg/héc-ta/năm).

- Đối với cây na trên 8 tuổi thì bón 2,5 kg/cây/đợt hay 7,5 kg/cây/năm (tương đương 3.750 kg/héc-ta/đợt và 11.250 kg/héc-ta/năm).

Bà con lưu ý phân bón được bón theo hình chiếu tán, đào 4 hốc đối xứng hay cuốc rãnh hình vành khăn, bỏ phân vào hố hoặc rãnh, lấp kín, tủ gốc bằng cỏ khô, lá khô để tạo ẩm

Bảo quản, chế biến các sản phẩm từ sữa bò tươi

Nuôi bò lấy sữa hiện đang là hướng phát triển kinh tế của nhiều hộ gia đình ở nông thôn và miền núi. Một số kinh nghiệm sau sẽ giúp bà con tăng hiệu quả và khắc phục được những khó khăn trong việc vắt và chế biến sản phẩm từ sữa bò tươi.

Bảo quản sữa tươi

Trước hết phải chuẩn bị ngay từ khâu chăn nuôi, chuồng trại cao ráo, thông thoáng, khô sạch, không có ruồi, bọ, ve, chuột... Bò phải thường xuyên tắm sạch sẽ. Trước mỗi lần vắt sữa, bà con tiến hành vệ sinh chuồng trại. Dụng cụ để vắt sữa (thùng, xô, cốc...) đảm bảo sạch sẽ, nhúng qua nước sôi trước khi sử dụng. Khăn vải xô để lau, lọc lắng sữa phải luộc qua nước sôi và phơi khô; khăn lau bầu vú bò phải nhúng nước sôi và vắt kiệt trước khi lau; người vắt sữa cũng phải sạch sẽ. Sau khi vắt xong, tất cả các dụng cụ phải cọ, giặt sạch, phơi khô ngoài nắng.

Sữa tươi sau khi vắt phải được lọc sạch qua 2 - 3 lớp vải, đổ sữa ngay vào bình chuyên dùng để tránh sữa tiếp xúc với không khí, làm sữa chóng bị chua. Nếu phải vận chuyển sữa đi xa cần phải tiến hành thanh trùng ngay bằng phương pháp cách thủy, rồi để nguội và bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ 4 - 60C.

Chế biến sữa thành các sản phẩm

Sữa tươi thanh trùng: Sau khi vắt được lọc sạch đem đun cách thủy ở nhiệt độ 65 - 750C trong 30 phút, sau đó làm lạnh càng nhanh càng tốt, vào khoảng 180C, đưa vào tủ lạnh ở nhiệt độ 4 - 60C, có thể dùng trong 24 giờ vẫn đảm bảo chất lượng tốt.

Sữa tiệt trùng: Cho sữa đã lọc sạch vào nồi áp suất đun sữa sôi ở nhiệt độ 105 - 1150C trong thời gian 15 - 20 phút, rồi làm lạnh xuống 180C, đem bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ 4 - 60C, có thể sử dụng trong thời gian dài hơn.

Sữa cô đặc: Dùng nồi hấp cách nhiệt đổ sữa vào đun nhỏ lửa, khuấy đều tay không để sữa vón cục, có thể dùng nồi cách nhiệt có hệ thống khuấy tự động bằng động cơ điện, bình quân cứ 2,2 ki-lô-gam sữa tươi và 450 gam đường kính sẽ cho 1 ki-lô-gam sữa đặc.

HÀNG THẬT - HÀNG GIẢ


Mở đợt cao điểm chống hàng lậu dịp cuối năm

Nhằm giúp bà con được sử dụng hàng hóa đảm bảo chất lượng trong đợt Tết Nguyên đán sắp tới, mới đây, Cục Quản lý thị trường đã phát động đợt cao điểm về đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong dịp cuối năm 2014 và Tết Ất Mùi 2015.

Đa dạng hoạt động chống hàng lậu

Ông Trịnh Văn Ngọc, Phó Cục trưởng phụ trách Cục Quản lý thị trường (QLTT) cho biết, trong thời gian qua, Cục QLTT đã phối hợp với các đơn vị, bám sát chỉ đạo của Chính phủ đẩy mạnh công tác phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả. Qua các đợt rà soát, kiểm tra, cơ quan chức năng đã phát hiện và xử lý nhiều vụ việc như: xử lý lô hàng xe đạp điện có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu GIANT trị giá hơn 2,6 tỷ đồng; xử lý vi phạm tại 4 trung tâm thương mại, siêu thị trên địa bàn, xử lý vi phạm hành chính gần 800 triệu đồng; xử lý 5 vụ vi phạm về đăng ký hợp đồng theo mẫu, xử lý vi phạm hành chính 440 triệu đồng... Trong 10 tháng đầu năm 2014, lực lượng QLTT cả nước đã kiểm tra 152.884 vụ, phát hiện xử lý 80.024 vụ vi phạm; xử phạt vi phạm hành chính 237,37 tỷ đồng, tổng thu nộp ngân sách Nhà nước 325,52 tỷ đồng.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, các cơ quan chức năng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc như hệ thống tổ chức của lực lượng QLTT hiện nay không tạo được sự tập trung, thống nhất, thông suốt trong cả nước, làm phân tán lực lượng, giảm tính cơ động, giảm hiệu quả công tác. Số lượng nhân sự hiện có của Cục QLTT không đủ để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao, kinh phí hoạt động còn nhiều khó khăn, chưa có kho để quản lý tang vật vi phạm.

Riêng về vấn đề này, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cho hay: “Thứ nhất, để giải quyết khó khăn về nhân sự, trước mắt, Cục QLTT cần phối hợp tốt hơn với chi cục QLTT các địa phương vì đây là lực lượng gần dân nhất, đóng vai trò là nguồn thông tin và hỗ trợ tốt nhất cho Cục. Thứ hai, Bộ Công Thương đồng tình và đã có kiến nghị về vấn đề phụ cấp thâm niên cho lực lượng QLTT nhằm hỗ trợ lực lượng này thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình”.

Mở đợt cao điểm chống buôn lậu

Theo nhận định, tình hình những tháng cuối năm 2014 còn nhiều khó khăn, thách thức, nạn buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại và vi phạm an toàn thực phẩm tiếp tục diễn biến phức tạp, đặc biệt vào thời gian trước, trong và sau Tết Nguyên đán. Vì vậy, Cục QLTT sẽ tiếp tục bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia và chỉ đạo của Bộ Công Thương, triển khai quyết liệt các nhiệm vụ về tăng cường công tác đấu tranh, nâng cao hiệu quả công tác QLTT, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.

Trong buổi họp giao ban công tác tháng 10, Cục QLTT đã chính thức phát động đợt cao điểm về chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả từ nay đến cuối năm. Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải chỉ đạo: “Trách nhiệm của Cục QLTT là làm sao thực hiện tốt nhất những công việc của mình trong đợt cao điểm này, nhằm góp phần giúp người dân được sử dụng hàng hóa đầy đủ và có chất lượng, đón những ngày lễ, Tết cuối năm an toàn”.

Tiếp thu ý kiến chỉ đạo, ông Trịnh Văn Ngọc khẳng định: Từ nay đến cuối năm, Cục QLTT sẽ phối hợp với các chi cục ở các địa phương tăng cường kiểm tra việc niêm yết và bán hàng theo giá niêm yết, chống đầu cơ, găm hàng, tăng giá bất hợp lý. Bên cạnh đó, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng đấu tranh, triệt phá các đường dây, ổ nhóm hoạt động buôn lậu, buôn bán, vận chuyển hàng cấm, hàng nhập lậu; Sản xuất, kinh doanh hàng giả và vi phạm an toàn thực phẩm, trong đó tập trung vào các mặt hàng như: thuốc lá, rượu, bia, bánh mứt kẹo, nước giải khát, thực phẩm các loại, phân bón, mũ bảo hiểm, gia súc gia cầm… đặc biệt là trong các dịp trước, trong và sau Tết Nguyên Đán.

Box: Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải: Từ nay đến cuối năm, Cục Quản lý thị trường có trách nhiệm phối hợp mạnh hơn nữa với các chi cục địa phương, triển khai nhiều hoạt động để hạn chế tối đa nạn hàng nhái, hàng giả, hàng lậu và gian lận thương mại ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của người dân.

Ban biên tập ((Thông tin do báo Công thương và Cổng Thông tin UBDT phối hợp thực hiện))