Chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số được nâng lên rõ rệt

10:17 AM 18/01/2019 |   Lượt xem: 9341 |   In bài viết | 

Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm UBDT Hoàng Thị Hạnh tặng Bằng khen của UBDT cho học sinh DTTS xuất sắc tiêu biểu năm 2018. Ảnh: Ngọc Lan

Hiện nay, hệ thống chính sách phát triển giáo dục đối với vùng DTTS và miền núi đã được ban hành khá đầy đủ cho 2 nhóm đối tượng học sinh và giáo viên. Các chính sách cho học sinh, sinh viên vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm chính sách học bổng; miễn giảm học phí; trợ cấp xã hội, hỗ trợ học tập; chính sách ưu tiên tuyển sinh vào đại học, cao đẳng; chính sách phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người... đang được thực hiện. Giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục công tác tại vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn đang được hưởng các chính sách ưu đãi gồm: Phụ cấp ưu đãi, phụ cấp thu hút, phụ cấp thâm niên vượt khung, trợ cấp chuyển vùng, trợ cấp học tập, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.

Các chính sách này đã thực sự đi vào cuộc sống và có ý nghĩa xã hội to lớn, góp phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho vùng DTTS và miền núi. Bên cạnh đó, trong những năm qua, Nhà nước đã huy động nhiều nguồn vốn khác nhau, tập trung đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất phục vụ giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục vùng DTTS và miền núi. Ủy ban Dân tộc (UBDT) cho biết, đến nay, mạng lưới, quy mô trường lớp từ mầm non đến trung học phổ thông ở vùng  DTTS và miền núi được củng cố và phát triển, đáp ứng nhu cầu học tập cho con em đồng bào các dân tộc trong độ tuổi đến trường. Các thôn, bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới đã có lớp mầm non. Hầu hết các xã có trường tiểu học ở khu vực trung tâm và trường trung học cơ sở. Các huyện đều có trường trung học phổ thông.

Từ các chương trình, dự án của Nhà nước kết hợp với sự đầu tư của các địa phương, đến nay, ở khu vực DTTS và miền núi đã xóa bỏ được phần lớn phòng học 3 ca, phòng học tạm; tạo điều kiện cho hàng triệu học sinh được ngồi học trong các phòng học kiên cố và giải quyết điều kiện chỗ ở cho hàng vạn giáo viên (đặc biệt các tỉnh miền núi phía Bắc, các huyện miền núi ở các tỉnh miền Trung, các tỉnh Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long). Cơ sở vật chất, thiết bị trường học phục vụ hoạt động dạy và học của các cơ sở giáo dục vùng DTTS, miền núi được quan tâm đầu tư, đã góp phần ổn định và phát triển quy mô giáo dục, tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục phấn đấu đạt chuẩn quốc gia và hoàn thiện dần mạng lưới cơ sở giáo dục ở các địa phương.

Theo thống kê của UBDT, hiện, cả nước có 5 trường dự bị đại học, 314 trường phổ thông dân tộc nội trú, 975 trường phổ thông dân tộc bán trú; 14 trường cao đẳng, trung cấp dạy nghề cho con em đồng bào DTTS. Hầu hết các xã có trường mầm non, 100% xã có trường tiểu học, trung học cơ sở, trung tâm cụm xã có trường trung học phổ thông. Nhờ vậy, tỷ lệ huy động học sinh ra lớp ngày càng cao, chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên, góp phần nâng cao tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS, đáp ứng ngày càng tốt hơn nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.

Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm UBDT cho biết, chất lượng giáo dục của các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú, dự bị đại học dân tộc dần được nâng lên qua các năm học. Các trường đã và đang thực hiện tốt nhiệm vụ tạo nguồn đào tạo nhân lực có chất lượng cho các địa phương. Trên 50% học sinh của các trường này thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng; 5% học cử tuyển, 13% vào dự bị đại học, 20% học trung cấp chuyên nghiệp, học nghề, số ít còn lại tham gia công tác và lao động sản xuất ở địa phương.

Bên cạnh việc nâng cao chất lượng dạy học, các cơ sở giáo dục vùng DTTS và miền núi còn góp phần vào việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Nhiều địa phương đã vận dụng sáng tạo giáo dục văn hóa dân tộc và tri thức địa phương cho học sinh trong các trường học như: Sưu tầm, biên soạn tài liệu giáo dục văn hóa dân tộc và tri thức ở địa phương đưa vào giảng dạy trong trường học. Hiện, cả nước chính thức triển khai dạy và học 6 thứ tiếng DTTS (Mông, Chăm, Khmer, Jrai, Bana, Ê đê). Qua đó, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, khơi lên niềm tự hào, tạo hứng thú đến trường đối với học sinh. Việc dạy tiếng DTTS  được thực hiện tại 23 tỉnh, thành trong cả nước, với quy mô 715 trường; 4.812 lớp, với hơn 113.230 học sinh.

UBDT cho biết, năm học 2017-2018, cùng với chất lượng giáo dục toàn diện được cải thiện, công tác giáo dục mũi nhọn, chăm lo phát triển nguồn nhân lực DTTS chất lượng cao được chú trọng và tăng cường. Nhiều tỉnh có nhiều học sinh là người DTTS đạt giải trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia và cuộc thi khoa học - kỹ thuật cấp quốc gia. Đặc biệt, ngày càng có nhiều học sinh thuộc các DTTS rất ít người đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông và học lên những cấp học cao hơn. Hầu hết các tỉnh, tỉ lệ học sinh là người DTTS đạt giải trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia, học sinh là người DTTS dưới 1.000 người tốt nghiệp trung học phổ thông và học sinh trúng tuyển vào các trường chuyên nghiệp đạt điểm cao đều tăng so với những năm học trước. Qua đó cho thấy, chất lượng giáo dục vùng DTTS và miền núi đang ngày càng được nâng lên.

(bienphong.com.vn)