Hội thảo quốc gia về tình trạng tảo hôn ở Việt Nam

12:42 AM 26/10/2016 |   Lượt xem: 17340 |   In bài viết | 

Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương phát biểu tại Hội thảo

Đồng chủ trì Hội thảo có các đồng chí: Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương; Đỗ Văn Chiến, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm UBDT; Nguyễn Viết Tiến, Thứ trưởng Bộ Y tế; Đào Hồng Lan, Ủy viên Dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội; bà Astrid Bant Trưởng đại diện Quỹ dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam. Tham dự Hội thảo có đại diện một số tổ chức quốc tế; đại diện Ban Dân tộc một số tỉnh thành.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm UBDT Đỗ Văn Chiến phát biểu tại Hội thảo.

Các đại biểu tham dự Hội thảo

Tình trạng tảo hôn hiện xảy ra ở 63 tỉnh thành trên cả nước. Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống gây ra nhiều hệ lụy đối với bản thân, gia đình, gánh nặng cho xã hội. Nguyên nhân chính là do nghèo đói và bất bình đẳng giới. Giải quyết tình trạng tảo hôn chính là một trong các giải pháp góp phần giảm nghèo, thúc đẩy bình đẳng giới và quyền con người, cũng như góp phần duy trì sự bền vững của phát triển kinh tế - xã hội cho cộng đồng và quốc gia.

Trên thế giới hiện có hơn 700 triệu phụ nữ kết hôn dưới độ tuổi 15. Cứ 3 phụ nữ thì có 1 người (khoảng 250 triệu người) kết hôn trước tuổi 15. Tảo hôn ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống và sức khỏe của các em gái, làm mất đi các cơ hội và cản trở tương lai của các em, bao gồm nghề nghiệp mà các em mong muốn, cũng như gây ảnh hưởng sâu sắc tới gia đình của các em.

Trẻ em gái kết hôn trước tuổi 18 thường phải bỏ học và có nhiều nguy cơ bị bạo lực gia đình. So với phụ nữ sinh con ở độ tuổi trên 20 thì các bà mẹ trẻ em có nhiều nguy cơ tử vong do những biến chứng thai sản và trong quá trình sinh con. Con cái của các bà mẹ trẻ con thường bị chết lưu hoặc chết trong những tháng đầu đời. Những biến chứng thai sản này là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu của các bà mẹ trẻ con ở các quốc gia đang phát triển.

Phát biểu tại Hội thảo, đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương nhấn mạnh: Để xây dựng cách tiếp cận giải quyết tảo hôn ở Việt Nam, Chính phủ cần tham vấn các tổ chức nghiên cứu, các tổ chức Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, các tổ chức quốc tế, các tổ chức xã hội dân sự. Trong đó chú trọng thay đổi các chuẩn mực xã hội nhằm thúc đẩy bình đẳng giới, cần có các can thiệp cho trẻ em gái nhằm ngăn chặn tình trạng bỏ học giữa chừng, khuyến khích tạo điều kiện để các em được đi học trung học chuyên nghiệp, học nghề, bố trí việc làm. Song song với các biện pháp mang tính chất phòng ngừa như: Truyền thông, tư vấn, vận động thay đổi nhận thức, tiếp tục tăng cường đầu tư phát triển kinh tế, xã hội, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao dân trí cho người dân.

“Việc thông qua các Mục tiêu phát triển bền vững vào năm 2015, bao gồm mục tiêu về chấm dứt tảo hôn vào năm 2030 là một cơ hội tuyệt vời giúp các trẻ em gái ở nhiều vùng khó khăn xây dựng tương lai của mình” - đồng chí Trương Thị Mai nhấn mạnh thêm.

Bà Astrid Bant, Trưởng đại diện Quỹ dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam phát biểu tại Hội thảo.

Bà Astrid Bant, Trưởng đại diện Quỹ dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam cho biết: “Liên Hợp Quốc sẽ cộng tác cùng với Chính phủ Việt Nam trong việc đảm bảo việc thực hiện quyền của trẻ em gái vị thành niên, giúp trẻ em gái phát triển được hết tiềm năng của mình và điều này sẽ giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển về kinh tế - xã hội. Với sự hỗ trợ từ gia đình, cộng đồng và quốc gia, cùng với việc trẻ em gái được thực hiện đầy đủ các quyền của mình, trẻ em gái có thể phát triển mạnh mẽ và khỏe mạnh, góp phần mang lại tương lai mà thế giới chúng ta mong muốn”.

Thay mặt các cơ quan phối hợp và chủ trì Hội thảo, phát biểu tổng kết, Bộ trưởng, Chủ nhiệm UBDT Đỗ Văn Chiến nhấn mạnh: Tảo hôn là một trong những nguyên nhân chính làm suy giảm chất lượng dân số, dẫn đến đói nghèo. Ở Việt Nam tỷ lệ tảo hôn ở vùng núi, vùng DTTS cao hơn các vùng khác và tảo hôn ở nữ giới cao hơn nam giới, tảo hôn ở nông thôn cao hơn ở thành thị.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm cho biết, Việt Nam đã có nhiều chủ trương, nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bình đẳng giới nhằm ngăn chặn đẩy lùi tảo hôn. Tảo hôn là vi phạm pháp luật, mặc dù vậy, tình trạng tảo hôn vẫn đang là thách thức lớn, vì vậy cần có sự quan tâm thỏa đáng của các cấp, các ngành, các nhà nghiên cứu và các nhà chuyên môn.

Về nguyên nhân dẫn đến tảo hôn, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Đỗ Văn Chiến đã chỉ rõ:  Phong tục tập quán lạc hậu nhất là vùng đồng bào DTTS và miền núi, kinh tế - xã hội kém phát triển, cơ hội tiếp cận với truyền thông, dịch vụ y tế, giáo dục, pháp luật còn thấp, bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử và thiếu hiểu biết; tiếp cận theo khía cạnh nhân học thì những người tảo hôn vừa đáng thương vừa đáng trách. Một người nếu mắc phải tảo hôn thì mang dấu ấn suốt cả cuộc đời, không có cơ hội sửa chữa khuyết điểm, xét ở góc độ xã hội thì các cấp, các ngành, hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở đều phải vào cuộc mới có thể ngăn chặn đẩy lùi được tình trạng tảo hôn. Tảo hôn không chỉ là vấn đề của 1 dân tộc, 1 địa phương, 1 quốc gia mà còn là vấn đề quốc tế, do vậy cần có thêm sự hợp tác, giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, nhất là các cơ quan của Liên Hợp Quốc.

Để giải quyết tình trạng tảo hôn, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Đỗ Văn Chiến cho rằng: Cần có nhận thức đúng đắn hơn về thực trạng tảo hôn ở Việt Nam, xác định được nguyên nhân của tảo hôn, tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, kết hợp hài hòa giữa công tác tuyên truyền, vận động, đảm bảo thực thi pháp luật liên quan đến bình đẳng giới, phối hợp với các bộ, ngành liên quan tham mưu với Chính phủ ban hành cơ chế chính sách để tiếp tục tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức, hỗ trợ tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, tư vấn pháp luật và hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội vùng đặc biệt khó khăn, tăng cường thúc đẩy bình đẳng giới, trao quyền cho trẻ em, nhất là trẻ em gái; phát huy vai trò của cộng đồng cơ sở, thôn, xóm, bản, làng, phum, sóc, phòng chống bất bình đẳng và phân biệt đối xử. Rất cần có sự điều tra cơ bản, khảo sát phân tích sâu kết hợp cơ sở dữ liệu quốc gia về tảo hôn, cần có sự chung tay góp sức phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, cả hệ thống chính trị nhưng cần phân định rõ ràng hơn, giao cho một cơ quan chịu trách nhiệm chính về vấn đề tảo hôn.

“Tảo hôn là vấn đề không chỉ diễn ra ở miền núi, vùng DTTS  mà còn cả ở đồng bằng, cả dân tộc kinh, nhưng nếu chúng ta dành sự quan tâm đặc biệt, hỗ trợ có hiệu quả, giảm thiểu, đẩy lùi tình trạng tảo hôn ở vùng DTTS và miền núi thì cơ bản chúng ta sẽ thành công” - Bộ trưởng, Chủ nhiệm Đỗ Văn Chiến nhấn mạnh thêm.

Theo kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 DTTS năm 2015, do Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê phối hợp thực hiện, tỷ lệ tảo hôn chung trong các DTTS là 26,6%, tỷ lệ tảo hôn cao nhất thuộc các DTTS sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội rất khó khăn như: Ơ Đu 73%; Mông 59,7%; Xinh Mun 56,3%; La Ha 52,7%; Rơ Măm 50%, Brâu 50%,…

Sơn Nam