Để dạy và học tiếng dân tộc có hiệu quả
08:48 AM 13/10/2010 | Lượt xem: 4338 In bài viết |Việc dạy và học tiếng dân tộc thiểu số đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ rất sớm, vấn đề này được thể hiện ở các văn bản pháp luật như: Nghị định 206/CP và Thông tư 14/TT ngày 12/4/1962 của Bộ Giáo dục hướng dẫn thực hiện Nghị định 206/CP của Chính phủ về dạy chữ dân tộc trong các trường lớp phổ thông và xoá mù chữ; Quyết định 153/CP và Thông tư 19/TT ngày 18/2/1972 của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn thực hiện Quyết định 153/CP của Chính phủ về dạy chữ dân tộc trong ngành giáo dục; Quyết định số 53/CP ngày 22 tháng 2 năm 1980 về chủ trương đối với chữ viết của các dân tộc thiểu số; Luật Giáo dục…
Trong những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã chỉ đạo các địa phương tích cực biên soạn chương trình dạy tiếng và chữ
dân tộc trong nhà trường. Đến năm học 2008-2009, cả nước có 17 tỉnh, thành phố
thực hiện việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số trong trường phổ thông như: Ninh
Thuận, An Giang, Tây Ninh, Cà Mau, Cần Thơ, Đắc Lắc, Gia Lai, Lào Cai, Yên
Bái... Việc dạy tiếng dân tộc thiểu số được triển khai ở 646 trường, 4.518 lớp
với 105.638 học sinh. Trong năm học này, cả nước có 1.223 giáo viên dạy tiếng
dân tộc thiểu số, hầu hết đều là người dân tộc thiểu số.”
Để tăng cường
hơn nữa việc đưa tiếng nói, chữ viết của đồng bào dân tộc thiểu số vào giảng dạy
ở các cấp giáo dục. Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82/2010/NĐ-CP
ngày 15/7/2010 quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số
trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên. Theo đó,
tiếng nói và chữ viết của dân tộc thiểu số sẽ là môn học trong các cơ sở giáo
dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên khi đảm bảo 5 Điều kiện quy
định tại Điều 3 như sau:
1- Người dân tộc thiểu số có nguyện vọng, nhu
cầu học tiếng dân tộc thiểu số;
2- Bộ chữ tiếng dân tộc thiểu số được
dạy và học trong nhà trường phải là bộ chữ cổ truyền được cộng đồng sử dụng,
được cơ quan chuyên môn xác định hoặc bộ chữ đã được cấp có thẩm quyền phê
chuẩn;
3- Chương trình và sách giáo khoa tiếng dân tộc thiểu số được
biên soạn và thẩm định theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo;
4- Giáo viên dạy tiếng dân tộc thiếu số đạt trình độ chuẩn đào tạo
của cấp học tương ứng, được đào tạo dạy tiếng dân tộc thiểu số tại các trường
cao đẳng, đại học sư phạm, khoa sư phạm;
5- Cơ sở vật chất và thiết bị
dạy học tiếng dân tộc thiểu số theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo.
Có thể nói, đây là những kết quả đáng khích lệ mà Đảng, Nhà nước,
Chính quyền các cấp và đồng bào dân tộc thiểu số ở một số địa phương đã phấn đấu
trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, chúng ta cần có những nghiên cứu, khảo sát,
đánh giá một cách khách quan, chính xác những kết quả đã đạt được cũng như những
khó khăn, vướng mắc, tồn tại khi dạy và học tiếng nói, chữ viết của đồng bào dân
tộc thiểu số trong thời gian vừa qua. Trong bài viết này, tôi xin trao đổi một
số vấn đề liên quan đến các điều kiện đưa tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu
số vào dạy và học trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục
thường xuyên như sau:
- Điều kiện: “Người dân tộc thiểu số có nguyện
vọng, nhu cầu học tiếng dân tộc thiểu số” – Đây là một điều kiện thực sự có ý
nghĩa và đáp ứng tâm tư, nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số nếu được thực
hiện tốt, đồng thời đảm bảo tính hiệu quả khi đưa tiếng nói, chữ viết của dân
tộc thiểu số vào dạy và học tại địa phương. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là:
Nguyện vọng ấy có được đáp ứng không? Làm thế nào để đáp ứng nguyện vọng, nhu
cầu đó? Nguyện vọng đó là gì?
Theo tôi, nguyện vọng của đồng bào khi học
tiếng nói và chữ viết là: Họ được học những gì, nội dung, chương trình học ra
làm sao, khi học xong họ tiếp thu được những gì, việc sử dụng tiếng nói, chữ
viết (đặc biệt là chữ viết) của họ trên thực tế sẽ như thế nào, thậm chí họ sẽ
được học loại chữ nào (đối với đồng bào có nhiều loại chữ viết, ví dụ: Dân tộc
Mông) và nguyện vọng cuối cùng của họ là được sử dụng chính tiếng nói, chữ viết
của mình để sưu tập, nghiên cứu các giá trị văn hóa – nghệ thuật, phong tục tập
quán, sáng tác văn học – nghệ thuật… để con cháu của họ được nghiên cứu, tìm
hiểu, học tập. Như vậy, để đáp ứng được những nguyện vọng đó thì đòi hỏi các cơ
quan chức năng, mà quan trọng nhất là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cần có những cuộc
khảo sát, chương trình nghiên cứu, thảo luận, lấy ý kiến của đồng bào trên thực
tế ở từng địa phương.
Ví dụ: Việc đưa chữ Mông vào dạy và học theo quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo từ trước đến nay là chữ Mông Việt Nam (hay còn
gọi là chữ Mông Lào Cai). Tuy nhiên, ở một số địa phương như Thanh Hóa, Nghệ An,
Thái Nguyên (theo khảo sát của bản thân trên thực tế)…, đồng bào lại có nguyện
vọng, nhu cầu học chữ Mông Quốc tế. Và thực tế ở Thái Nguyên, đã đưa chữ Mông
Quốc tế vào dạy và học cho các cán bộ, chiến sỹ Công an tỉnh Thái Nguyên. Mặc
dù, chữ Mông Quốc tế không phải là loại chữ được đưa vào chương trình dạy và học
theo quy định của Nhà nước ta nhưng loại chữ này được sử dụng rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng như: Internet, website, video, phim, sáng tác
văn học- nghệ thuật mà đặc biệt là được một số Giáo sư, Tiến sĩ người Mông ở
nước ngoài nghiên cứu viết thành các cuốn sách về lịch sử, phong tục tập quán,
từ điển, tiểu thuyết, báo chí, văn hóa về dân tộc Mông….được đông đảo độc giả ở
các nước trên thế giới quan tâm. Đồng bào dân tộc Mông trên thế giới cũng như ở
Việt Nam được tìm hiểu chữ Mông Quốc tế qua nhiều kênh thông tin nói trên, đồng
thời chữ Mông Quốc tế là một loại chữ dễ sử dụng, dễ thể hiện trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Do đó, hầu hết thanh niên đồng bào dân tộc Mông ở Việt
Nam đều biết sử dụng thành thạo loại chữ này (dù chưa có cuộc khảo sát chính
thức nào nhưng tất cả những học sinh, sinh viên Mông do tôi trực tiếp khảo sát
thì có trên 80% biết sử dụng thành thạo chữ Mông Quốc tế, và khoảng 5% biết chữ
Mông Lào Cai, thậm chí những cán bộ, giáo viên đã được đào tạo, bồi dưỡng chữ
Mông Lào Cai nhưng lại không biết đọc sau một thời gian ngắn).
Như vậy,
chữ Mông quốc tế được sử dụng phổ biến và rộng rãi ở các địa phương trên và nếu
đồng bào Mông ở những địa phương đó có nguyện vọng học chữ Mông Quốc tế thì có
được đáp ứng không? Vấn đề này đã được đề cập tại điểm b khoản 2 Điều 4 Dự thảo
Nghị định Quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số (năm
2009) như sau: “Với các dân tộc thiểu số có nhiều bộ chữ cùng tồn tại thì việc
lựa chọn bộ chữ để dạy được căn cứ vào tính phổ biến của bộ chữ đã và đang được
sử dụng ở địa phương.” Thế nhưng lại không được đề cập tại Nghị định này, vì
vậy, các cơ quan chức năng cần lưu ý vấn đề này.
- Điều kiện thứ 2 quy
định “Bộ chữ tiếng dân tộc thiểu số được dạy và học trong nhà trường phải là bộ
chữ cổ truyền được cộng đồng sử dụng, được cơ quan chuyên môn xác định hoặc bộ
chữ đã được cấp có thẩm quyền phê chuẩn”.
Như vậy, Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh cần có các cuộc khảo sát trên thực tế đối với đồng bào dân tộc thiểu số có
nhiều loại chữ viết ở các địa phương, trong đó cần khảo sát một cách toàn diện
(liên quan đến độ tuổi, nghề nghiệp, thành phần xã hội…) để trình Bộ Giáo dục và
Đào tạo phê duyệt và quyết định đưa loại chữ viết vào dạy và học có hiệu quả,
phù hợp với nguyện vọng của đồng bào.
Một điều kiện quan trọng nữa là:
“Giáo viên dạy tiếng dân tộc thiếu số đạt trình độ chuẩn đào tạo của cấp học
tương ứng, được đào tạo dạy tiếng dân tộc thiểu số tại các trường cao đẳng, đại
học sư phạm, khoa sư phạm”.
Thiết nghĩ đây là điều kiện quan trọng nhất
và cần phải cân nhắc thận trọng. Quy định trên là cần thiết và đảm bảo chất
lượng cho việc dạy và học tiếng nói, chữ viết dân tộc thiểu số, nhưng trên thực
tế số lượng giáo viên đạt trình độ chuẩn như trên chưa đáp ứng được nhu cầu
tuyển dụng và trong khi đó các trường “Đại học, Cao đẳng đào tạo chuyên ngành
dạy tiếng dân tộc thiểu số” còn rất ít cũng cần phải quan tâm. Do đó, việc tiêu
chuẩn hóa trình độ giáo viên cũng phải quy định theo từng giai đoạn. Ví dụ:
Những thế hệ trẻ Mông sử dụng chữ Mông quốc tế rất thành thạo, thậm chí có những
người nắm rất chuẩn phong tục tập quán, bản sắc văn hóa dân tộc nhưng chưa được
đào tạo tại các trường Đại học, Cao đẳng. Nếu những người này (qua kiểm tra) họ
thực sự có khả năng thì chỉ cần đào tạo, bồi dưỡng các khóa học ngắn hạn cũng có
thể tuyển dụng họ (nếu chữ Mông quốc tế được đưa vào chương trình đào tạo).
Tóm lại, nguyện vọng của đồng bào về việc học tiếng nói, chữ viết của
dân tộc mình là họ được học và sử dụng chữ viết ấy để nghiên cứu, sưu tầm, tổng
hợp các giá trị văn hóa – nghệ thuật, phong tục tập quán của họ. Nghị định số
82/2010/NĐ-CP quy định các điều kiện dạy và học tiếng nói, chữ viết của đồng bào
dân tộc thiểu số như trên là phù hợp và tạo điều kiện tốt để sớm đưa tiếng nói,
chữ viết của đồng bào các dân tộc thiểu số vào dạy và học theo quy định. Song,
các cấp chính quyền cần quan tâm đến nguyện vọng và nhu cầu của đồng bào, vì đây
là điều kiện làm cơ sở quan trọng, cơ bản cho việc thực hiện các điều kiện tiếp
theo và chỉ có đáp ứng được những nguyện vọng này thì mới đảm bảo thực hiện Nghị
định trên có hiệu quả trên thực tế (tạo bước đột phá trong việc dạy và học tiếng
nói, chữ viết của dân tộc thiểu số.
Vũ Bá Thông (Nguồn: Tạp chí Dân tộc - Số 118/2010)