Giảm nghèo đối với đồng bào thiểu số miền núi: Cần giải pháp khoa học và giám sát chặt chẽ
04:10 AM 10/12/2010 | Lượt xem: 2436 In bài viết |Tốc độ giảm nghèo còn chậm
Kết quả của những nỗ lực sau gần 2 thập kỷ thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo của Việt Nam là: tỷ lệ nghèo chung của cả nước đã giảm từ 58,1% trong năm 1993 xuống dưới 12% năm 2009. Trong đó, tỷ lệ nghèo ở vùng dân tộc miền núi (DTMN) cũng giảm đáng kể từ 86% năm 1993 xuống còn khoảng 31,2% năm 2009 (năm 2010 dự kiến còn 28,8%). Để có được những thành quả to lớn này, phải nói nhờ những nỗ lực quyết tâm của Chính phủ Việt Nam cũng như sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện hiệu quả các chính sách, chương trình Mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo như: Chương trình Phát triển KT-XH các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi giai đoạn 2006 – 2010, Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo, Chính sách hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn... Nhìn chung, các chương trình, chính sách này khá toàn diện, bao trùm tất cả các lĩnh vực, các khía cạnh của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, tỷ lệ nghèo ở vùng DTMN còn cao (gấp hơn 2,5 lần so với trung bình của cả nước). Thu nhập bình quân của đồng bào DTTS và miền núi chỉ bằng khoảng 1/3 so với mức thu nhập trung bình của cả nước. Theo ước tính khi “chuẩn nghèo 400.000/người/tháng” được áp dụng từ năm 2011, tỷ lệ nghèo ở các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn sẽ tăng lên 60%, thậm chí một số nơi còn lên tới 70-75%.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Giàng Seo Phử cho biết, tốc độ giảm nghèo của đồng bào dân tộc chậm hơn nhiều so với tốc độ bình quân của cả nước. Quá trình hưởng lợi từ các chương trình dự án vào vùng đồng bào dân tộc không đồng đều. Ở nhiều vùng đồng bào DTTS, tỷ lệ nghèo, tuổi thọ trung bình, tình trạng suy dinh dưỡng và các khía cạnh khác về mức sống còn rất thấp. “Điều này cho thấy nếu không có những thay đổi lớn trong chiến lược giảm nghèo của quốc gia thì trong tương lai không xa, vấn đề nghèo đói ở Việt Nam sẽ tập trung chủ yếu ở vùng dân tộc và miền núi, và đối tượng chủ yếu là đồng bào DTTS”.
Cần những giải pháp khoa học
Chủ tịch xã Sùng Đô, Văn Chấn, Yên Bái Hờ A Kí cho biết, cả xã có 321 hộ, nhưng không có hộ nào thu nhập bình quân trên 500.000đ/người/tháng. Theo ông Kí việc có quá nhiều chính sách hỗ trợ một lúc không hẳn đã là hay mà nhiều khi gây khó khăn cho chính quyền cơ sở khi tiến hành triển khai “phân phối đồng đều” các chính sách này. Chẳng hạn hơn một năm nay, khá nhiều hộ được hỗ trợ máy tuốt lúa theo chương trình 135 nhưng họ không biết dùng “cái dụng cụ” ấy vào việc gì.
Bộ trưởng Giàng Seo Phử cũng thẳng thắn thừa nhận, “có sự trùng lặp về nội dung của các dự án giảm nghèo”. Hiện nay trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi có tới trên 50 đầu chính sách giảm nghèo và liên quan đến giảm nghèo với khoảng hơn 200 văn bản pháp lý. Trung bình mỗi xã đang triển khai khoảng 20-30 chính sách. Tuy có nhiều chính sách nhưng với mức đầu tư thấp, thiếu tập trung, nên hiệu quả tác động giảm nghèo còn thiếu bền vững, chưa tạo ra đột phá. Bên cạnh đó, cơ chế chính sách giảm nghèo còn chưa khuyến khích được được quyết tâm vươn lên thoát nghèo của các địa phương nghèo. Tâm lý chung của họ là vẫn trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Có tình trạng nhiều xã không muốn “thoát nghèo” vì như vậy sẽ không còn được nhận hỗ trợ.
Theo điều phối viên thường trú LHQ tại Việt Nam ông John Hendra: Công tác giảm nghèo trong thời gian tới sẽ khó khăn, phức tạp và cần nhiều kinh phí hơn giai đoạn trước và để giảm nghèo hiệu quả vùng DTMN, Việt Nam cần có cách tiếp cận mới. Ông Hendra lưu ý: “Ở Việt Nam, tình trạng nghèo đói rất đa dạng giữa các nhóm dân tộc khác nhau. Vì vậy, phải có những giải pháp mục tiêu phù hợp với văn hóa và bối cảnh từng vùng để có thể tiếp tục giảm nghèo và phát triển đồng bộ KT - XH, văn hóa và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính. Đặc biệt phải tìm ra cách giám sát chặt chẽ, tổng kết đánh giá một cách bài bản với các chương trình hỗ trợ giảm nghèo đối với các vùng DTMN”.
Kết quả của những nỗ lực sau gần 2 thập kỷ thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo của Việt Nam là: tỷ lệ nghèo chung của cả nước đã giảm từ 58,1% trong năm 1993 xuống dưới 12% năm 2009. Trong đó, tỷ lệ nghèo ở vùng dân tộc miền núi (DTMN) cũng giảm đáng kể từ 86% năm 1993 xuống còn khoảng 31,2% năm 2009 (năm 2010 dự kiến còn 28,8%). Để có được những thành quả to lớn này, phải nói nhờ những nỗ lực quyết tâm của Chính phủ Việt Nam cũng như sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện hiệu quả các chính sách, chương trình Mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo như: Chương trình Phát triển KT-XH các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi giai đoạn 2006 – 2010, Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo, Chính sách hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn... Nhìn chung, các chương trình, chính sách này khá toàn diện, bao trùm tất cả các lĩnh vực, các khía cạnh của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, tỷ lệ nghèo ở vùng DTMN còn cao (gấp hơn 2,5 lần so với trung bình của cả nước). Thu nhập bình quân của đồng bào DTTS và miền núi chỉ bằng khoảng 1/3 so với mức thu nhập trung bình của cả nước. Theo ước tính khi “chuẩn nghèo 400.000/người/tháng” được áp dụng từ năm 2011, tỷ lệ nghèo ở các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn sẽ tăng lên 60%, thậm chí một số nơi còn lên tới 70-75%.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Giàng Seo Phử cho biết, tốc độ giảm nghèo của đồng bào dân tộc chậm hơn nhiều so với tốc độ bình quân của cả nước. Quá trình hưởng lợi từ các chương trình dự án vào vùng đồng bào dân tộc không đồng đều. Ở nhiều vùng đồng bào DTTS, tỷ lệ nghèo, tuổi thọ trung bình, tình trạng suy dinh dưỡng và các khía cạnh khác về mức sống còn rất thấp. “Điều này cho thấy nếu không có những thay đổi lớn trong chiến lược giảm nghèo của quốc gia thì trong tương lai không xa, vấn đề nghèo đói ở Việt Nam sẽ tập trung chủ yếu ở vùng dân tộc và miền núi, và đối tượng chủ yếu là đồng bào DTTS”.
Cần những giải pháp khoa học
Chủ tịch xã Sùng Đô, Văn Chấn, Yên Bái Hờ A Kí cho biết, cả xã có 321 hộ, nhưng không có hộ nào thu nhập bình quân trên 500.000đ/người/tháng. Theo ông Kí việc có quá nhiều chính sách hỗ trợ một lúc không hẳn đã là hay mà nhiều khi gây khó khăn cho chính quyền cơ sở khi tiến hành triển khai “phân phối đồng đều” các chính sách này. Chẳng hạn hơn một năm nay, khá nhiều hộ được hỗ trợ máy tuốt lúa theo chương trình 135 nhưng họ không biết dùng “cái dụng cụ” ấy vào việc gì.
Bộ trưởng Giàng Seo Phử cũng thẳng thắn thừa nhận, “có sự trùng lặp về nội dung của các dự án giảm nghèo”. Hiện nay trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi có tới trên 50 đầu chính sách giảm nghèo và liên quan đến giảm nghèo với khoảng hơn 200 văn bản pháp lý. Trung bình mỗi xã đang triển khai khoảng 20-30 chính sách. Tuy có nhiều chính sách nhưng với mức đầu tư thấp, thiếu tập trung, nên hiệu quả tác động giảm nghèo còn thiếu bền vững, chưa tạo ra đột phá. Bên cạnh đó, cơ chế chính sách giảm nghèo còn chưa khuyến khích được được quyết tâm vươn lên thoát nghèo của các địa phương nghèo. Tâm lý chung của họ là vẫn trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Có tình trạng nhiều xã không muốn “thoát nghèo” vì như vậy sẽ không còn được nhận hỗ trợ.
Theo điều phối viên thường trú LHQ tại Việt Nam ông John Hendra: Công tác giảm nghèo trong thời gian tới sẽ khó khăn, phức tạp và cần nhiều kinh phí hơn giai đoạn trước và để giảm nghèo hiệu quả vùng DTMN, Việt Nam cần có cách tiếp cận mới. Ông Hendra lưu ý: “Ở Việt Nam, tình trạng nghèo đói rất đa dạng giữa các nhóm dân tộc khác nhau. Vì vậy, phải có những giải pháp mục tiêu phù hợp với văn hóa và bối cảnh từng vùng để có thể tiếp tục giảm nghèo và phát triển đồng bộ KT - XH, văn hóa và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính. Đặc biệt phải tìm ra cách giám sát chặt chẽ, tổng kết đánh giá một cách bài bản với các chương trình hỗ trợ giảm nghèo đối với các vùng DTMN”.
Lục Bình (Nguồn: baomoi.com)
Tin khác